Vũ Hoàng
Chương quê quán Nam Định, sinh năm 1916 bên dòng sông Đào thơ mộng, Sống xa nhà
từ thuở nhỏ, lớn lên ở Hà Nội, đỗ tú tài 1937. Nho học, Tây học đều thông suốt,
theo học Luật khoa một thời gian rồi bỏ. Có một giai đoạn làm kiểm soát sở Hỏa
xa Đông Dương rồi cũng bỏ nửa chừng, đi dạy học đây đó ở Thái Bình, Hải Phòng.
Sống lang thang phóng khoáng, giang hồ lãng tử…
Từ năm 1940
mới 24 tuổi đã xuất bản tác phẩm đầu tay Thơ
Say, gây hào hứng bừng dậy một làn gió mới trong giới văn nghệ sĩ Hà thành
lúc bấy giờ. Sau đó lần lượt ấn hành những thi phẩm Mây ( 1943 ) Thơ Lửa ( 1948 ) những kịch thơ Trương Chi, Vân Muội, Hồng Diệp, Thằng Cuội ( 1944 ).
Thi nhân từ
giã Hà Nội năm 1954, làm chuyến lên đường di cư vào Sài Gòn, thủ đô miền Nam
Việt Nam, khám phá tạo lập một cuộc sống mới. Sau khi ổn định nề nếp đời thường
xong, thi nhân tiếp tục nghề dạy học và tất nhiên là viết văn làm thơ. Hòa nhập
nhanh chóng vào sinh hoạt văn nghệ miền Nam, ngay cuối năm 1954 đã cho ra mắt
liền thi phẩm Rừng Phong tại Sài Gòn.
Năm 1959 tập thơ Hoa Đăng đoạt giải
nhất về thi ca và cũng năm này, thi sĩ sang Bỉ dự hội nghị Thi ca Quốc tế, rồi sang
Thái Lan dự Văn bút Á Châu (1964) qua Nam Tư dự Văn bút Quốc tế (1965). Từ năm
1969 đến 1973 là chủ tịch Trung tâm Văn Bút Việt Nam .
Làm việc hết
sức nhiệt tình, thích giao du với bằng hữu nên Vũ Hoàng Chương dựng lên một Gác
Mây ở ngay nhà mình, là nơi lui tới của tao nhân mặc khách, anh em văn nghệ sĩ
bốn phương. Được thở bầu không khí tự do trên mảnh đất mới, khơi dậy hồn thơ bẩm
sinh vốn đa tình đa cảm, thi sĩ như nhập vào suối nguồn sáng tạo trào tuôn lai
láng nên nhiều thi phẩm tâm đắc ra đời như : Tâm Sự Kẻ Sang Tần, Cảm Thông, Trời Một Phương, Lửa Từ bi, Ánh Trăng Đạo
Lý, Bút Nở Hoa Đàm, Cành Mai Trắng Mộng, Ta Đợi Em Từ Ba Mươi Năm, Ngồi Quán, Đời
Vắng Em Rồi Say Với Ai ? Chúng Ta Mất Hết Chỉ Còn Nhau và Ta Đã Làm Chi Đời Ta ?
Đặc biệt Ta Đã Làm Chi Đời Ta ? là một tập hồi
ký, nhà thơ kể lại chuỗi ngày tháng lang bạt kỳ hồ, rong rêu lêu lổng với giới
văn nghệ, những cuộc ngao du, du hý phiêu bồng đây đó thời thanh xuân tuổi trẻ
trước 1954 ở ngoài miền Bắc xa xăm.
Tâm hồn trầm
mặc Đông phương, tràn đầy thi vị lý thú, Vũ Hoàng Chương là một nhà thơ trữ
tình lãng mạn, chứa chan cả trời thơ đất mộng lung linh. Tình thơ chất ngất bay
cao vút tận đỉnh trời lồng lộng, ý thơ nồng nàn tha thiết, cháy bỏng bao nỗi
niềm rung ngân bất tuyệt những tiếng lòng vọng lên từ sâu thẳm tâm tư. Từ tính
khí ưa tự do phóng đãng, thích phiêu
lãng tang bồng, thi sĩ bỏ xứ ra đi làm một gã phong trần với túi thơ bầu rượu ngất
ngưởng nghêu ngao. Thời tiền chiến ở miền Bắc, chắc phủ trùm lên một bầu khí
hậu ngột ngạt khó thở sao đó, khiến cho hầu hết giới thanh niên trẻ tuổi đều
mang tâm trạng lạc lõng bơ vơ, đi mà chẳng biết đi về đâu giữa biển đời lênh
đênh không bờ bến :
Nhổ neo rồi thuyền ơi xin mặc sóng
Xuôi về Đông hay dạt tới phương Đoài
Xa mặt đất giữa vô cùng cao rộng
Lòng cô đơn cay đắng họa dần vơi
Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh
Bể vô tận sá gì phương hướng nữa
Thuyền ơi thuyền theo gió hãy lênh đênh
Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ
Một đôi người u uất nỗi trơ vơ
Đời kiêu bạt không dung hồn giản dị
Thuyền ơi thuyền xin ghé bến hoang sơ
Men đã ngấm bọn ta chờ nắng tắt
Treo buồm cao cùng cất tiếng hò khoan
Gió đã thổi nhịp trăng chiều hiu hắt
Thuyền ơi thuyền theo gió hãy cho ngoan
Thuyền viễn
xứ chèo qua dòng Suối Mơ huyền ảo Văn
Cao hay Con Thuyền Không Bến bềnh
bồng theo Đặng Thế Phong là những cuộc lữ long đong của cả một thế hệ bơ vơ,
ngơ ngác, chẳng biết về đâu giữa ngã ba đường. Đó là buổi giao thời xung đột
giữa cái cũ và mới, giữa Đông và Tây... Cùng thời với Vũ Hoàng Chương có Quang
Dũng, Đinh Hùng, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Dần, Phùng Quán, Lê Đạt, Huy Cận, Xuân
Diệu, Nguyễn Bính, Nguyên Ngọc, Tô Hoài, Thế Lữ… Hầu như trước sự bế tắt tâm tư
thời đại, tất cả những tâm hồn nhạy cảm ấy đều tìm đến men rượu say tình cho
nguôi ngoai đi nỗi sầu thế sự, Vũ Hoàng Chương cũng đắm chìm trong hương vị túy
lúy cuồng ca quá đỗi trằn trọc, quằn quại thê lương :
Trăng của nhà ai trăng một phương
Nơi đây rượu đắng mưa đêm trường
Ồ ! Đêm tháng sáu mười hai nhỉ
Tố của Hoàng ơi ! Hỡi nhớ thương
Là thế là thôi là thế đó
Mười năm thôi thế mộng tan tành
Mười năm trăng cũ ai nguyền ước
Tố của Hoàng ơi ! Tố của anh
Tháng sáu mười hai từ đấy nhé !
Chung đôi từ đấy nhé lìa đôi
Em xa lạ quá đâu còn phải
Tố của Hoàng xưa Tố của tôi
Men khói đêm nay sầu dựng mộ
Bia đề tháng sáu ghi mười hai
Tình ta ta tiếc cuồng ta khóc
Tố của Hoàng nay Tố của ai ?
Mười năm theo máu hận trào rơi
Học làm Trang Tử thiêu cơ nghiệp
Khúc Cổ bồn ca gõ hát chơi…
Hát chơi điệu
mang mang thiên địa sầu là một mối sầu thời đại nhiễu nhương, sầu thương khủng
khiếp đoạn trường. Phải chăng đó là điều thường xảy ra trong những cuộc tình du
dương thắm thiết của tài tử giai nhân ? Những cuộc tình si đầy chất tương tư ủy
mị, vì có thể làm cho người ta đi đến chỗ điên cuồng, tuyệt lộ, tự tử nếu không
có một lối thoát nào đó mở ra. Trước bao nhiêu sự việc biển dâu, nhà thơ đều im
lặng chấp nhận nhưng không thể bình thản, an tâm được khi tình yêu tha thiết
đột nhiên chấm dứt nửa chừng. Chao ơi ! Không biết vì sao cứ bàng hoàng thảng
thốt, hỡi thuyền quyên thực nữ, hỡi thiên hương quốc sắc lặng lẽ qua cầu, rưng
rưng tiễn biệt mà đau xót lòng :
Sóng dậy đìu hiu biển dấy sầu
Lênh đênh thương nhớ dạt trời Âu
Thôi rồi tay nắm tay lần cuối
Chia nẻo giang hồ vĩnh biệt nhau
Trai lỡ phong vân gái lỡ tình
Này đêm tri ngộ xót điêu linh
Niềm quê sực thức niềm quan ải
Giây lát dừng chân cuộc viễn trình...
Quán rượu liền đêm chuốc đắng cay
Buồn mưa trăng lạnh nắng hoa gầy
Nắng mưa đã trải tình nhân thế
Lưu lạc sầu chung một hướng say
Gặp gỡ chừng như truyện Liêu trai
Ra đi chẳng biết một ngày mai
Em ơi ! Lửa tắt bình khô rượu
Đời vắng em rồi say với ai ?
Còn ai đâu mà
bốc cháy say sưa nữa, khi em là người yêu, người tình, nàng thơ diễm tuyệt, là
tri âm tri kỷ, chí cốt ruột rà nhất đã dứt áo ra đi. Đi là đi mất đi biệt như
đóa hoa vô thường, rơi tàn tạ hương sắc mong manh xuống vườn hồn tả tơi bao xác
lá. Nhà thơ lãng mạn Vũ Hoàng Chương đã trọn vẹn quăng ném hết tâm tình mình
vào cuộc mộng tình yêu kiều diễm, từng nốc cạn bầu rượu tình ái đến ly cuối mặn
nồng bốc lửa hoan say, chuếnh choáng, chàng rộn ràng dấn bước nhập cuộc để khai
triển, khám phá hết những mối ưu tư thầm kín, những tình cảm nhiệt liệt, thấm
thía trong tận đáy lòng sâu thẳm tâm linh.
Tình và tâm
cùng hòa âm thâm cảm, giao hòa thấu suốt muôn chiều tim máu sâu xa nên đã va
chạm đến thần hồn vi diệu tuyệt trần Phật giáo. Thật vậy, thi ca Vũ Hoàng
Chương đã tìm được một lối thoát ngoạn mục, đã phiêu nhiên bay vào phương trời
bát ngát tâm thiền uyên áo, đóng góp một phần rất lớn vào văn học Phật giáo
Việt Nam qua các thi phẩm sáng ngời Lửa
Từ Bi, Ánh Trăng Đạo Lý và Bút Nở Hoa
Đàm đậm đà bản sắc nhân văn. Trăng lòng uyên nguyên hiển lộ, long lanh lấp
lánh vô ngần :
Phật có bàn tay dẹp bất bình
Cả ngàn con mắt chiếu vô minh
Chỉ đôi tai Phật sao nghe xiết
Tiếng khóc giờ đây của chúng sinh ?
Nước mắt
chúng sinh nhiều hơn nước biển đại dương là một cách diễn đạt sự thống khổ của
nhân gian quá khổ lụy đọa đày. Vậy bằng phép lạ nhiệm mầu nào, Đức Phật có thể
ra tay cứu độ hết tất cả mọi khổ đau, trầm thống điêu linh của nhân loại được đây,
hay phải tự mình chuyển hóa, thăng hoa theo thể lệ “Tự mình thắp đuốc lên mà đi ?” Chỉ có vậy thôi. Phải hùng tâm
tráng khí, tự mình đứng dậy bước đi từng bước tự tri. Lặng lẽ âm thầm, thi sĩ
sớm bắt gặp Phật giáo Thiền tông và lãnh hội được tinh túy của thiền, cho nên
hồn thơ đã chuyển sang hướng giải thoát, phong quang sáng tạo chứ không còn
chìm đắm trong men say rượu, say tình như thời tiền chiến thuở xưa nữa. Cái thời
buồn nôn, hư vô, chán chường ấy đã xa như tiền kiếp, thi sĩ hồi sinh lại giữa
ánh hào quang tuệ giác siêu việt của Hoa Nghiêm, Kim Cang, Bát Nhã quá độ vô
cùng vô tận, rạt rào vô lượng vô biên. Tuyệt vời làm sao, khi thi nhân nhập
định, cất lên tiếng Nguyện Cầu, lời đại
nguyện âm thầm thâm thiết, chuyển hóa toàn triệt thế giới nội tâm. Mở đầu bài
thơ, thi sĩ nêu ra một nghi vấn, một câu hỏi trọng đại trước lý vô thường,
trước lẽ sinh tử luân hồi của kiếp người giữa vũ trụ mênh mông :
Ta còn để lại gì không ?
Kìa non đá lở nọ sông cát bồi
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước xa xôi dặm về
Ta là ai ? Ta
là kẻ nào trong cuộc lữ trăm năm ? Phải chăng ta là một con người sinh ra lớn
lên giữa cuộc đời : Làm việc, đấu tranh, dành dụm, tích trữ vật chất và tinh
thần, rồi cuối cùng tử thần vụt đến dẫn ta đi xuống u linh, kinh hoàng nơi cõi
chết mịt mù tăm tối ? Chết là chấm dứt hết tất cả mọi sự hay sao ? Thi nhân
sững sờ tự hỏi : “Ta còn để lại gì không
?” Khi mà “Kìa non đá lở nọ sông cát
bồi.” Chới với trước vạn vật đổi thay, đất trời thiên diễn, vô thường như
thế, nhà thơ sực thấy mình từ đời thuở
nào đã xoay chuyển mãi trong vòng luân hồi sinh tử u minh, mù mù phía trước,
mịt mịt phía sau, làm kẻ phong trần khách, lang thang như gã cùng tử giữa cuộc
lữ muôn trùng… Rồi một hôm bất ngờ bỗng
sực thấy :
Trông ra bến hoặc bờ mê
Nghìn thu nửa chớp bốn bề một phương
Ta van cát bụi trên đường
Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này
Bờ bến nào
huyễn hoặc, bến bờ nào vọng mê, hỡi cõi hỗn độn phù du phủ đầy hư ảo vô minh ?
Khiến cho thi nhân trong giây phút nhập thần, chợt thấy thiên thu trong một ánh
chớp và bốn bề, mười phương trong một giây phút thực tại bây giờ. Bây giờ và ở
đây, cuộc lữ lại tiếp tục lên đường viễn xứ, nhưng từ đây, thi sĩ đã thoáng
hiện thấy một cõi đi về cố quận ở bên trong tâm hồn vốn trong xanh thanh tịnh.
Đó là cõi quê lòng trong trẻo, xanh biếc nguyên sơ, chưa từng vướng mắc, ô
nhiễm bụi phù trần, nên thi sĩ chân thành lên tiếng tỏ bày, bộc bạch một cách
thiết tha “Ta van cát bụi trên đường. Dù
nhơ dù sạch đừng vương gót này.”
Đi trên con
đường trần gian cát bụi, thôi thì đủ thứ xanh vàng đỏ trắng, muôn màu nghìn sắc
dẫy đầy vẻ hấp dẫn, quyến rũ, lôi cuốn ta vào mê lộ, túy sinh mộng tử mang
mang… Nếu không tỉnh thức thì sẽ bị cuốn trôi theo đắm chìm giữa miền điên đảo,
nhào lộn tồn sinh bức bách, não phiền, không lối thoát. Vì thế, dù dơ bẩn hay
trong sạch, dù thiện lành hay xấu ác… thì thi nhân vẫn không muốn vướng bận,
không thích dính mắc vào làm chi. Đó chính là bước đi xa lìa mọi đối đãi, vượt
ngoài phân biệt đúng sai, phải quấy, hơn thua, được mất… của thế giới nhị
nguyên. Biết thế nên thi sĩ thể hiện một cách sống mãnh liệt viên dung, sống
hết mình, trọn vẹn say sưa với ngọn lửa thiêng đang bừng cháy trong hồn. Ngọn
lửa thiêng từ cõi tâm bừng sáng chói lòa cả càn khôn vũ trụ, bay lên rực rỡ huy
hoàng tận đỉnh trời thiên thanh vĩnh thúy. Với trạng thái xuất thần ấy, lời thơ
lãng đãng đi về :
Để ta tròn một kiếp say
Cao xanh liều một cánh tay níu trời
Nói chi thua được với đời
Quản chi những tiếng ma cười đêm thâu
Con người đau
khổ vì mãi đấu tranh, giành giật lẫn nhau theo kiểu sống thực dụng, chiếm hữu
cái lợi trước mắt, sẵn sàng tàn nhẫn, chà đạp, sát hại người khác để giành lợi
lộc về phần mình. Nhà thơ nhạy cảm, trực thấy rõ sự nguy hiểm của cách sống bị
điều động bởi tham lam, sân hận và si mê ấy, nên có ý cảnh giác những đầu óc
thực dụng, sống như máy móc, chỉ biết tính toán, so đo được mất, hơn thua, giàu
nghèo, phải trái… theo kiểu ma quái lật lường, xuôi ngược hồ đồ tráo trở. Đó là
loại người rơi vào hư vô chủ nghĩa với quan niệm chết là hết, nên họ chủ trương
sống thỏa mãn tham dục, thỏa mãn những nhu cầu vật chất nông cạn mà thôi. “Nói chi thua được với đời. Quản chi những
tiếng ma cười đêm thâu.”
Nói chi… quản
chi… sá chi… những trò đời ma quỷ, oái oăm, nhà thơ mỉm cười tịch nhiên bất
động trong lặng lẽ xa lìa, viễn ly tất cả. Sá gì mà chấp trước, vướng bận nhì
nhằng làm chi cho mệt, phải không ? Trên ngõ về quê quán cũ, chốn hồn tâm xanh
biếc sơ nguyên của chính minh, nhà thơ mở rộng lòng ra một cách thành tâm :
Tâm hương đốt nén linh sầu
Nhớ quê dằng dặc ta cầu đấy thôi
Đêm nào ta trở về ngôi
Hồn thơ sẽ hết luân hồi thế gian
Một phen đã nín cung đàn
Nghĩ chi còn mất hơi tàn thanh âm
Luân hồi chấm
dứt thì Niết bàn hiện ra. Niết bàn chính là cố quận đang hiện hữu giữa trái tim
mình, ngay trong lòng thanh tịnh của mình đây thôi. Chỉ cần ta “hồi đầu thị ngạn” thì hoát nhiên triệt
ngộ, chứng vào cảnh giới Niết bàn Diệu Tâm liền lập tức. Điều đó đã có nhiều
người từ ngàn xưa đến nay thực hiện được rồi, như các vị Bồ tát, thiền sư, nghệ
sĩ vĩ đại trên mặt đất.
Nhà thơ Vũ
Hoàng Chương trên con đường trở về cố quận ấy đã từng giáp mặt, chứng kiến biết
bao bậc thiền sư, Bồ tát thị hiện giữa cuộc đời, như vào tháng 6 năm 1963 tại
Sài Gòn, ngọn lửa thiêng của Bồ tát Quảng Đức bừng cháy lên rực trời trong đêm
dài tăm tối vô minh, làm sửng sốt, bàng hoàng, đánh thức cơn u mê của chế độ Ngô Đình Diệm kỳ thị tôn giáo, đang tàn bạo cố
tình tiêu diệt Phật giáo. Ngô Đình Diệm cùng anh em gia đình trị độc tài, đàn
áp đẫm máu Phật giáo đồ Việt Nam. Vô cùng rúng động trước ngọn lửa vô úy đầy tuệ
giác sáng ngời của Bồ tát Quảng Đức, thi sĩ xuất thần sáng tác bài thơ Lửa Từ Bi bất hủ, ngọn lửa thiêng ấy sẽ
còn cháy mãi đến muôn thuở thiên thu, vạn đại vĩnh hằng :
Lửa ! Lửa cháy ngất Tòa Sen !
Tám chín phương nhục thể trần tâm
Hiện thành Thơ quỳ cả xuống
Hai Vầng Sáng rưng rưng
Đông Tây nhòa lệ ngọc
Chắp tay đón một Mặt Trời mới mọc
Ánh Đạo Vàng phơi phới
Đang bừng lên dâng lên
Ôi ! Đích thực hôm nay Trời có Mặt
Giờ là giờ hoàng đạo nguy nga
Muôn vạn khối sân si vừa mở mắt
Nhìn nhau tình huynh đệ bao la
Sông Hằng kia bởi đâu mà cát bay ?
Thương chúng sinh trầm luân bể khổ
Người rẽ phăng đêm tối đất dày
Bước ra ngồi nhập định hướng về Tây
Gọi hết lửa vào xương da bỏ ngỏ
Phật Pháp chẳng rời tay
Sáu ngã luân hồi đâu đó
Mang mang cùng nín thở
Tiếng nấc lên ngừng nhịp Bánh Xe Quay
Không khí vặn mình theo
Khóc òa lên nổi gió
Người siêu thăng
Giông bão lặng từ đây
Bóng Người vượt chín tầng mây
Nhân gian mát rượi bóng cây Bồ Đề
Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc
Lụa hay tre nào khiến bút ai ghi
Chỗ Người ngồi : Một thiên thu tuyệt tác
Trong vô hình sáng chói nết Từ Bi
Rồi đây rồi mai sau còn chi ?
Ngọc đá cũng thành tro
Lụa tre dần mục nát
Với thời gian lê vết máu qua đi
Còn mãi chứ còn Trái Tim Bồ Tát
Gội hào quang xuống tận ngục A tỳ
Ôi ngọn lửa huyền vi
Thế giới ba nghìn phút giây ngơ ngác
Từ cõi vô minh
Hướng về Cực Lạc
Vần điệu của thi nhân chỉ còn là rơm rác
Và chỉ nguyện được là rơm rác
Thơ cháy lên theo với lời kinh
Tụng cho nhân loại hòa bình
Trước sau bền vững tình huynh đệ này
Thổn thức nghe lòng Trái Đất
Mong thành Quả Phúc về cây
Đồng loại chúng con
Nắm tay nhau tràn nước mắt
Tình thương hiện Tháp Chín Tầng xây
Từ Thơ Say đến Lửa Từ Bi, thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã đi một bước thượng thừa hùng
tráng, đầy ngoạn mục phi thường. Hồn thơ ăm ắp hơi thở hiện đại mà vẫn giữ được
truyền thống Đông phương trầm mặc. Cung bậc hào hùng từ tiếng thơ ấy bay dậy
luồng thanh khí như thắp lên ngọn lửa thơ rực hồng ý niềm uyên tư từ ái :
Ai là người có cánh tay hào kiệt
Trong tương lai một sớm một chiều
Đủ sức hái cành hoa làm bút viết
Những vần Thương Yêu ?
Những vần thơ
yêu thương cuộc sống đã có biết bao nhiêu người tiếp tục viết và viết mãi trên
tờ mây trắng thiên thanh hay giữa dòng đời bao la mới lạ. Đó là những tâm hồn
thênh thang sáng tạo, những bạn đồng hành cùng thi sĩ. Tâm đắc tư tưởng tự tại
an nhiên, tinh thần giải thoát sinh tử của thiền, Vũ Hoàng Chương đã sống một
cuộc đời tỉnh thức và siêu thức giữa bao la pháp giới, chập chùng vũ trụ vần
xoay :
Bao nhiêu hạt cát bến sông này
Đã bấy nhiêu ngàn thế kỷ nay
Ta vượt ngàn năm đường ánh sáng
Từ ngoài vô tận đến nơi đây
Đêm đêm ta dõi mấy từng cao
Tìm một không gian mới lạ nào
Lấp lánh Quê Trời thơ hẹn bến
Giam mình Quả Đất mãi hay sao ?
Nhân loại ra đi chẳng một lần
Hợp tan nào khác mảnh phù vân
Trên đà tốc độ siêu quang ấy
Một chuyến đăng trình một hóa thân
Khi thấu thị
được lẽ huyền vi sâu xa đó thì thi nhân đâu còn lo sợ chi những chuyện vô
thường dâu bể nữa phải không ? Thôi thì chút cơ thể cát bụi phù du đã hóa thân
giữa trùng trùng bụi cát, rồi một mai hội đủ nhân duyên mà tựu thành một sinh
thể khác hoàn toàn mới mẻ, tinh khôi hơn. Chỉ xót xa cho người ở lại mà thôi, như
thiền sư Nhất Hạnh tiếc thương nhà thơ Vũ Hoàng Chương đã vĩnh biệt cõi đời vào
cuối năm 1976 ( sau khi đi học tập cải tạo về ) trong lặng lẽ ngậm ngùi :
Đêm này dù đã về ngôi
Hồn thơ vẫn thấy luân hồi thế gian
Bút hoa ngàn kiếp không tàn
Đuốc thơ còn cháy trên trang sử người
Có không mù mịt biển khơi
Nẻo về đã rạng chân trời thênh thang
Tỉnh say vẫn một cung đàn
Lửa anh hào đốt cháy tan đêm sầu
Thơ lên bay vút bồ câu
Triều âm chấn động phương nào chẳng nghe
Giấc mơ hồ điệp đi về
Biển Đông sóng vỗ kình nghê vẫn còn
Tâm Nhiên
Thơ Vũ Hoàng Chương ( chữ nghiêng ) trích
trong các tác phẩm : Thơ Say, Mây, Rừng Phong, Lửa Từ Bi, Bút Nở Hoa Đàm.