Thơ là gì ? Thi ca là cái chi ?
Có người cắt cớ hỏi Bùi Giáng như vậy. Thi sĩ khề khà trả lời : “Con chim thì ta biết nó bay, con cá thì ta
biết nó lội, thằng thi sĩ thì ta biết nó làm thơ, nhưng thơ là gì, thì đó là
điều ta không biết.”* Tuy nói thế, nhưng suốt bình sinh trong cuộc sống,
thi sĩ chỉ dốc chí làm thơ và sống phiêu bồng, lãng tử như thơ mà thôi.
Đó là một cách trả lời mà không
đáp ứng gì cả, giống như một tục khách đến hỏi thiền sư : “Thiền là gì ?” Đáp : “Hôm nay
thời tiết chưa tốt lắm.” Trả lời mà chẳng giải thích, vì thiền sư biết căn
cơ của khách tục chưa đủ chín muồi, dù có nói nhiều điều cao siêu đi chăng nữa thì
cũng không lãnh hội chi đâu. Tốt nhất là nên im lặng.
Im lặng để cho kẻ thắc mắc kia
còn có cơ hội khám phá ra vẻ đẹp tuyệt trần chân thiện mỹ của thiền. Khi tự tỏ
ngộ thì đương nhiên, họ không còn chạy đây đó tìm học, tham vấn vu vơ gì nữa. Từ đó,
thơ và thiền tự nhiên hiển lộ, lung linh, kỳ ảo vô ngần trong phương lòng quang
minh của chính họ rồi.
Lúc ấy sẽ bùng vỡ ra cái thấy
tinh khôi, mới lạ và làm tiêu tan hết mọi mệt mỏi, chán chường, như thi hào
Rainer Maria Rilke phát biểu : “Nếu đời
sống thường nhật trở nên nhạt nhẽo, nghèo nàn đối với anh thì anh đừng bao giờ
quy trách nó. Anh hãy tự trách chính anh rằng, anh không đủ tâm hồn thi nhân để
mà có thể gợi dậy trong lòng mình tất cả sự phong phú, miên man của đời sống
thường nhật, vì đối với một con người sáng tạo, một thi sĩ thì chẳng có gì là nhạt
nhẽo, nghèo nàn, chẳng có một nơi chốn nào là khô khan, lãnh đạm.”**
Đúng như vậy, với kẻ sáng tạo thì
họ có khả năng làm sinh động lại những tiêu điều, hiu hắt, biết chuyển hóa nỗi
đau buồn thành niềm hân hoan tối thượng. Bước đi trên con đường sáng tạo là
bước đi vô sở trú, vô sở cầu, vô sở đắc, thi sĩ kẻ không cửa, không nhà, kẻ cô
đơn sâu thẳm, tâm hồn dồn về nẻo chân lý, hướng về ngõ uyên nguyên, khơi mở
mạch suối nguồn.
Cuộc lữ khởi sự băng qua những sa
mạc, hư vô đời khô khốc, những địa ngục sục sôi, cháy đầy lửa bỏng, những hố
thẳm âm u, mịt mù tăm tối… Rồi cuộc lữ mở ra một con đường phong quang sáng
tạo, ngút ngàn mây trắng với những phương trời bát ngát bao la, để cho thi sĩ
chợt thấy mình không là chi cả : Không tên tuổi, không gia đình, không sự
nghiệp, không địa vị, không trách nhiệm, không bổn phận, không mục đích, không
chỗ trú cư trong thời gian và không gian.
Không chỗ trú vào bất cứ đâu, nên
thênh thang vô sự theo cách điệu tiêu dao du ngay cái đang là luôn luôn mới lạ
và mới lạ giữa như thị, như nhiên, phiêu bồng không chấp.
Âm thầm, tuyệt nhiên lặng lẽ,
người thi sĩ thở cùng thơ, sống cùng thơ, trọn vẹn, tuyệt đối thủy chung với
nàng thơ bát ngát. Họ không bận tâm nhiều tới quần áo, ăn uống, ngủ nghỉ, chẳng
thiết chi chuyện truyền giống, nối dõi tông đường hay bảo vệ đất nước, duy trì
quốc gia, nhất là không thích làm giàu để hưởng thụ mà trái lại, ưa sống đạm
bạc, thanh bần, đơn sơ, giản dị. Họ chỉ quan tâm tới sáng tạo và chân lý như
đại văn hào Henry Miller tuyên bố một câu bất hủ : “Từ
chút ít sách vở tôi đã đọc, tôi nghiệm ra rằng, những người lặn lội sâu nhất
trong cuộc đời, những người nhồi nặn cuộc đời, những người chính là cuộc đời
đều ăn ít, ngủ ít, sở hữu ít hay không có gì cả. Họ không có bất kỳ một ảo
tưởng nào về bổn phận, hoặc nối dõi tông đường hay duy trì quốc gia. Họ chỉ
quan tâm tới chân lý và chân lý mà thôi. Họ chỉ chấp nhận một hình thức hoạt
động là sáng tạo. Không một người nào có thể chỉ huy công việc họ, bởi vì họ tự
nguyện cho tất cả. Họ cho không, bởi vì đó là cách duy nhất để cho.”***
Dĩ nhiên cái gọi là cho ấy của thiền sư, nghệ sĩ,
thi nhân, không phải là của cải vật chất tầm thường mà là tinh túy, tinh hoa kết
đọng thành tư tưởng vô hình, vô tướng. Chỉ những tâm hồn đồng điệu, đồng thanh
tương ứng mới cảm được, mới thấy được giá trị vô lường của tặng phẩm tinh thần
thâm thúy đó, để diệu dụng cùng cung bậc đời thường, thanh thản tự do.
Cho nên đi vào cõi thơ là dấn thân vào cõi mộng
không lời, là phiêu lưu mạo hiểm xuống hố thẳm không đáy, là bay lên những
phương trời vô xứ cùng tuyệt thiên thanh. Đòi hỏi kẻ lữ hành độc đạo, phải
buông xuống sạch sành sanh tất cả những thứ cặn bã của xã hội loài người như
được mất, hơn thua, tốt xấu, giàu nghèo, danh lợi, khen chê, đúng sai, phải
quấy... Bước nhảy trọng đại đó là bước nhảy chập chùng sinh tử. Có vượt qua gập
ghềnh sinh tử được hay không là còn tùy công phu hàm dưỡng của mỗi người.
Đường của thơ là không lộ, đầy cuồng phong, bão
táp, đầy lao đao khổ lụy, đọa đày. Tuy
bị đày đọa như thế nhưng vẫn có cái thi vị tuyệt vời, như thiền sư Tuệ Sỹ nhận
định : “Người làm thơ, cuộc đời bị đày ải
truân chuyên, trong đó cũng có cái ảo diệu của vị chua, vị mặn. Suốt đời học
Thiền, suốt đời vẫn đày đọa thân tâm, đày đọa trong cái Không và cái Tĩnh. Đày
đọa đó mà kỳ thực không là đày đọa. Cũng vậy, suốt đời làm thơ thì suốt đời khổ
lụy lao đao, nhưng không là khổ lụy lao đao. Chỗ ảo diệu đó, chưa đạt đến cõi
thượng thừa của thi ca, làm sao hiểu nổi ?”****
Cõi thượng thừa của thi ca ở đâu ? Phải chăng, đó là
công án mà mỗi thi nhân phải tự mình đốn ngộ, chứ đừng ngớ ngẩn chạy đôn chạy
đáo thưa hỏi, tìm kiếm lung tung. Cứ nhập cuộc chịu chơi, ném mình vào những
phương trời gió loạn, cúi sâu xuống tận đáy lòng hun hút cô liêu, diệu vợi của
mình, may ra sẽ bùng vỡ mật nghĩa cái chân lý muôn đời.
Trên tinh thần phóng khoáng, tự do đó, người thi
sĩ tự bao giờ vẫn nhất thiết kiên trì, vô cùng nhẫn nại. Bước đi lầm lũi khai
phá, dốc chí bền gan sáng tạo và sáng tạo kỳ cùng, song hành cùng nàng thơ độc
đáo, vô song, như triết gia, nhà thơ Phạm Công Thiện có lần tâm sự : “Làm thơ là hố thẳm xoáy
tròn vào cơn bão tố rùng rợn của thơ và chỉ nhìn thấy thơ trên trời, thơ ở dưới
đất, thơ trong tim, thơ trong óc não, thơ trong mạch máu, thơ trong hơi thở,
thơ trong đời sống, thơ trong cái chết, thơ trong hiện thể, thơ trong vô thể,
thơ trong hư vô… Chỉ có thi sĩ mới sống tận bản thân mình, sống phóng tới đằng
trước tất cả những khả tính sắp hiện của dân tộc mình.”*****
Thi nhân là kẻ tiên tri thấu thị,
một bậc siêu phàm hay một tên khùng điên rồ dại, gọi gì cũng được, họ chẳng bận
tâm mà chỉ lao mình vào cuộc đại hòa điệu chơi với đủ mọi hình thức : Tình yêu,
đau khổ, điên cuồng… như thi sĩ Rimbaud bộc bạch : “Thi nhân tự biến mình thành tiên tri thấu thị bằng một sự hỗn loạn của
tất cả mọi giác quan lâu dài, rộng lớn, phi thường và hợp lý. Tất cả mọi hình
thức tình yêu, đau khổ, điên cuồng : Hắn tìm kiếm chính hắn, hắn nuốt trọn mọi
độc tố trong hắn để giữ lại tinh túy. Cực hình khôn tả, trong đó hắn cần tất cả
sức mạnh siêu nhân, trong đó hắn trở thành kẻ bệnh nhân vĩ đại, kẻ tội nhân vĩ
đại, kẻ bị nguyền rủa vĩ đại và nhà bác học siêu phàm. Bởi vì hắn đi tới cái vị
tri.”***
Cái vị tri mở ra những phương
trời mây trắng bồng bềnh, thênh thang bát ngát, tiêu dao lồng lộng trên cảnh
giới bất khả tư nghì. Thi sĩ và thiền sư cùng lao đao và cùng tiêu sái trong
cõi trầm mặc phiêu nhiên. Tuyệt thay là phong cách nhào lộn tồn sinh, rốt ráo
tột độ của những tâm hồn kỳ dị đã nếm được hương vị vô cực, vô vi :“Thi sĩ rơi xuống cõi đời bơ vơ, bỡ ngỡ và
lạ lùng. Không có lấy một người hiểu mình… Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ.
Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cả
cảm giác của tình yêu. Tôi đã vui buồn, sướng khổ, giận hờn đến gần đứt sự
sống.”*****
Thi sĩ Hàn Mặc Tử đã nói như thế
và Phạm Công Thiện diễn giải : “Khi nào
mình “đến gần đứt sự sống” rồi thì mới biết Thơ là cái gì, mới biết làm thơ,
mới biết đọc thơ. Khi mình chưa “đến gần đứt sự sống” thì không được quyền nói
bất cứ điều gì về Thơ, về Thi Ca, về Thi Sĩ, về Thi Nhân…”*****
Phải chăng, đó là một thái độ vô
cùng cẩn trọng đối với Thơ, được phát biểu bởi một thiên tài kỳ tuyệt ? Trong
khi bây giờ, có một số người thiển cận tỏ ra xem nhẹ, rẻ rúng, xuyên tạc thi ca
truyền thống ngàn đời của dân tộc. Chúng tổ chức thành hội này, nhóm nọ, cố
tình phá hoại nền văn nghệ đích thực, bằng đủ mọi hành vi đen tối, rồi còn ra
mặt hỗn láo, vô lễ, sừng sộ với tổ tiên, tiền bối, lôi cả thi hào Nguyễn Du ra
bôi bác, lại dám cả gan sửa đổi hàng ngàn từ ngữ trong kiệt tác Truyện Kiều nữa
chứ ! Hỡi ôi ! Cái bọn hồ đồ ấy còn lên giọng chê bai, chửi bới, đả kích, khinh
thường những thi sĩ, những người làm thơ, coi thơ như một thứ gì vô bổ, vô ích,
vô nghĩa, đáng ném vào sọt rác, vì lạc điệu giữa cuộc sống thực tế đầy xô bồ,
hỗn độn, gần như máy móc, vô cảm hôm nay.
Vậy đó mà Phạm Công Thiện vẫn mặc
kệ, vẫn trọn lòng tin cậy vào sự huyền nhiệm của thi ca và kiên nhẫn, kiên nhẫn
ba la mật, khuyến khích chúng ta một cách đọc thơ như trì tụng kinh điển, để tự
thâm nhập sâu xa cái thâm mật ở chính trong hồn sâu thẳm của mình : “Đọc thơ cũng giống như đọc kinh. Phải thọ,
trì, đọc, tụng, Đọc không phải để hiểu mà để biết. Biết cái thâm mật của một
giây phút thoáng qua nhanh chóng hơn ánh sáng và biết cái thâm mật của tam
thiên đại thiên thế giới, của vô số hằng hà tỉ tỉ thiên hà trong lòng ta và
ngoài kia không gian phiêu dật. Mà chính lòng ta là tất cả không gian phiêu dật…”*****
Không những thế, Phạm Công Thiện
còn hồn nhiên tụng ca Thơ, tán thán Thi Ca bằng một niềm tin tưởng tuyệt đối : “Nói đến Thơ không khác gì nói đến Thượng đế.
Phê bình Thơ là làm việc phạm thánh, là “blaspheme.” Những thi sĩ không phải là
loài người, họ là những thiên thần, những thánh hoặc những quỷ ma. Nếu ta không
chấp nhận họ được thì thôi, ta không được quyền có thái độ của học giả hay giáo
sư hoặc nhà phê bình. Phải giết hết những kẻ phê bình để cho Keats sống, để cho
Chatterton đừng chết lúc mới 18 tuổi xuân xanh !
Anh không thể cảm thơ người ta thì hãy im lặng, còn nếu cảm được thì
anh hãy tha thiết ca ngợi, đừng e dẻ, giữ gìn gì cả. Không nên có những nhà phê
bình thơ mà chỉ nên có những kẻ ca tụng thơ. Thơ là của riêng từng người, không
có ai làm thầy ai cả.”******
Giữa thời buổi nhiễu nhương, văn
chương, văn nghệ hầu như không còn giá trị gì nữa mà vẫn còn người yêu thi ca
như vậy, quả thật là hy hữu phải không ? Buồn quá ! Sa mạc, hư vô đang lan dần
trên đất mẹ, quê hương, trên khắp cả quả địa cầu hoang vu này rồi, bọn quỷ dữ,
ác ma đã xuất hiện rầm rộ, chúng giết người hàng loạt, dùng mọi thủ đoạn, lừa
đảo, ám sát, khủng bố, đầu độc không trừ một thứ chi hết. Toàn bộ nền văn minh
nhân loại của thế kỷ XXI đang gieo rắc
sự chết, tiến bộ gieo sự chết, khoa học gieo sự chết, tôn giáo gieo sự chết, chủ
nghĩa gieo sự chết, xã hội gieo sự chết, chính trị gieo sự chết, kinh tế gieo
sự chết, văn hóa gieo sự chết, giáo dục gieo sự chết…
Hầu hết loài người trong thời
hiện đại đều đang quay cuồng trong cơn túy sinh mộng tử, điên rồ cố giành giật
đất đai, lãnh thổ, cố mở rộng, bành trướng tôn giáo, cố tuyên truyền chủ nghĩa,
đảng phái, học thuyết và tất nhiên là xung đột quyết liệt. Họ cố tàn sát đẫm
máu lẫn nhau, bằng đủ mọi âm mưu thâm hiểm, độc ác, tinh vi như lời thơ tiên
tri của Nguyễn Du, bậc đại thi hào dân tộc :
Mặt ngoài thơn thớt nói cười
Mà trong nham hiểm giết người không dao
Chao ơi ! Sống trong thời buổi
điêu linh như vậy, một cõi nhân gian bi đát, tan hoang như thế, hỏi sao người
thi sĩ không cảm thấy lạc lõng, bơ vơ cho được ? Họ vô lường thương cảm, xót xa,
đành rời quê nhà, bỏ xứ sở, làm kẻ lang thang tuyệt mù viễn xứ như Phạm Công
Thiện, muốn điên cuồng kỳ dị như Bùi Giáng, hay tuyệt nhiên im lặng, mặc như
lôi như Tuệ Sỹ và cuối cùng, chỉ còn biết âm thầm sáng tạo, lặng lẽ làm thơ như
muốn thắp lên một ngọn lửa tình yêu diệu huyền, xanh biếc thiết tha trên sa mạc
khô cằn của nhân loại.
Nói như văn hào Hermann Heese : “Dù có bị đau đớn, quằn quại, tôi vẫn yêu
thương trần gian điên dại này.”******* Cho nên thi nhân vẫn hạo nhiên chi
khí, tự nguyện đi vào địa ngục trần gian, đốt bừng lên đuốc lửa tuệ quang, sáng
ngời vô úy, thổi vào hồn tồn lưu một ngọn lửa tình thương yêu vô điều kiện và
hòa âm thâm mật trên cung bậc thi ca.
Thi ca là suối nguồn bất tận,
chảy hoài từ thiên vạn cổ đến nay, như nhà thơ Saint John Perse tỏ bày trong
dịp nhận giải thưởng Nobel văn chương năm 1960 : “Người thơ đã có trong con người ăn lông ở lỗ, người thơ vẫn sẽ có
trong con người thời nguyên tử, vì người thơ là một phần tử bất khả phân của
con người. Chính từ sự đòi hỏi của thơ, của tâm, làm phát sinh tôn giáo và nhờ
duyên thơ mà tia lửa thiêng sống mãi trong khối đá người. Khi mọi thần thoại
sụp đổ hết thì thơ là chỗ ẩn cuối cùng của cái tối linh.”********
Tình yêu, tình thương là điệp
khúc, là bản trường ca miên viễn, bất tuyệt của thơ mà sứ mệnh người thi sĩ sáng
tạo phải giữ gìn, xiển dương, làm cho phục hồi, sống dậy mãnh liệt, ý lực bừng
lên huy hoàng, sáng suốt, tuôn trào vô lượng vô biên. Hãy đốt hồn thơ thiêng
liêng, cháy rực ngời ngọn lửa cảm xúc, rung động thiên thu, để nghe nhịp thở
bồi hồi giữa bầu khí hậu thanh tân, phấn chấn, hân hoan yêu đời trong tiếng hát
đại bi tâm. Tiếng hát đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả ấy mãi hoài ngân vọng
trong lòng người từ muôn thuở đến muôn nơi, trên mặt đất trần gian vẫn còn thơ
mộng này.
Tâm Nhiên
* Bùi Giáng. Sa Mạc Trường Ca. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1970
** Raner Maria Rilke. Thư Gởi Người Thi Sĩ Trẻ Tuổi. Hoàng Thu Uyên
dịch. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1969
*** Nguyễn Hữu Hiệu. Con Đường Sáng Tạo. Hồng Hà xuất bản, Sài Gòn 1973
**** Tuệ Sỹ. Tô Đông Pha Những Phương Trời Viễn Mộng. Ca Dao xuất bản,
Sài Gòn 1973
***** Phạm Công Thiện. Một Đêm Siêu Hình Với Hàn Mặc Tử. Trần Thi xuất
bản, California 2006
****** Phạm Công Thiện. Ý Thức Mới Trong Văn Nghệ Và Triết Học. An Tiêm
xuất bản, Sài Gòn 1966.
******* Hermann Hesse. Câu Chuyện Dòng Sông. Phùng Khánh dịch. An Tiêm
xuất bản, Sài Gòn 1969
******** Huyền Giác. Chứng Đạo Ca. Trúc Thiên dịch. Lá Bối xuất bản,
Sài Gòn 1970