Tâm Nhiên

Tâm Nhiên

SÁNG TẠO LÀ CON ĐƯỜNG THI SĨ




Thơ là gì ? Thi ca là cái chi ? Có người cắt cớ hỏi Bùi Giáng như vậy. Thi sĩ khề khà trả lời : “Con chim thì ta biết nó bay, con cá thì ta biết nó lội, thằng thi sĩ thì ta biết nó làm thơ, nhưng thơ là gì, thì đó là điều ta không biết.”* Tuy nói thế, nhưng suốt bình sinh trong cuộc sống, thi sĩ chỉ dốc chí làm thơ và sống phiêu bồng, lãng tử như thơ mà thôi.

Đó là một cách trả lời mà không đáp ứng gì cả, giống như một tục khách đến hỏi thiền sư : “Thiền là gì ?” Đáp : “Hôm nay thời tiết chưa tốt lắm.” Trả lời mà chẳng giải thích, vì thiền sư biết căn cơ của khách tục chưa đủ chín muồi, dù có nói nhiều điều cao siêu đi chăng nữa thì cũng không lãnh hội chi đâu. Tốt nhất là nên im lặng.

Im lặng để cho kẻ thắc mắc kia còn có cơ hội khám phá ra vẻ đẹp tuyệt trần chân thiện mỹ của thiền. Khi tự tỏ ngộ thì đương nhiên, họ không còn chạy  đây đó tìm học, tham vấn vu vơ gì nữa. Từ đó, thơ và thiền tự nhiên hiển lộ, lung linh, kỳ ảo vô ngần trong phương lòng quang minh của chính họ rồi.

Lúc ấy sẽ bùng vỡ ra cái thấy tinh khôi, mới lạ và làm tiêu tan hết mọi mệt mỏi, chán chường, như thi hào Rainer Maria Rilke phát biểu : “Nếu đời sống thường nhật trở nên nhạt nhẽo, nghèo nàn đối với anh thì anh đừng bao giờ quy trách nó. Anh hãy tự trách chính anh rằng, anh không đủ tâm hồn thi nhân để mà có thể gợi dậy trong lòng mình tất cả sự phong phú, miên man của đời sống thường nhật, vì đối với một con người sáng tạo, một thi sĩ thì chẳng có gì là nhạt nhẽo, nghèo nàn, chẳng có một nơi chốn nào là khô khan, lãnh đạm.”**

Đúng như vậy, với kẻ sáng tạo thì họ có khả năng làm sinh động lại những tiêu điều, hiu hắt, biết chuyển hóa nỗi đau buồn thành niềm hân hoan tối thượng. Bước đi trên con đường sáng tạo là bước đi vô sở trú, vô sở cầu, vô sở đắc, thi sĩ kẻ không cửa, không nhà, kẻ cô đơn sâu thẳm, tâm hồn dồn về nẻo chân lý, hướng về ngõ uyên nguyên, khơi mở mạch suối nguồn.

Cuộc lữ khởi sự băng qua những sa mạc, hư vô đời khô khốc, những địa ngục sục sôi, cháy đầy lửa bỏng, những hố thẳm âm u, mịt mù tăm tối… Rồi cuộc lữ mở ra một con đường phong quang sáng tạo, ngút ngàn mây trắng với những phương trời bát ngát bao la, để cho thi sĩ chợt thấy mình không là chi cả : Không tên tuổi, không gia đình, không sự nghiệp, không địa vị, không trách nhiệm, không bổn phận, không mục đích, không chỗ trú cư trong thời gian và không gian.

Không chỗ trú vào bất cứ đâu, nên thênh thang vô sự theo cách điệu tiêu dao du ngay cái đang là luôn luôn mới lạ và mới lạ giữa như thị, như nhiên, phiêu bồng không chấp.

Âm thầm, tuyệt nhiên lặng lẽ, người thi sĩ thở cùng thơ, sống cùng thơ, trọn vẹn, tuyệt đối thủy chung với nàng thơ bát ngát. Họ không bận tâm nhiều tới quần áo, ăn uống, ngủ nghỉ, chẳng thiết chi chuyện truyền giống, nối dõi tông đường hay bảo vệ đất nước, duy trì quốc gia, nhất là không thích làm giàu để hưởng thụ mà trái lại, ưa sống đạm bạc, thanh bần, đơn sơ, giản dị. Họ chỉ quan tâm tới sáng tạo và chân lý như đại văn hào Henry Miller tuyên bố một câu bất hủ : “Từ chút ít sách vở tôi đã đọc, tôi nghiệm ra rằng, những người lặn lội sâu nhất trong cuộc đời, những người nhồi nặn cuộc đời, những người chính là cuộc đời đều ăn ít, ngủ ít, sở hữu ít hay không có gì cả. Họ không có bất kỳ một ảo tưởng nào về bổn phận, hoặc nối dõi tông đường hay duy trì quốc gia. Họ chỉ quan tâm tới chân lý và chân lý mà thôi. Họ chỉ chấp nhận một hình thức hoạt động là sáng tạo. Không một người nào có thể chỉ huy công việc họ, bởi vì họ tự nguyện cho tất cả. Họ cho không, bởi vì đó là cách duy nhất để cho.”***

Dĩ nhiên cái gọi là cho ấy của thiền sư, nghệ sĩ, thi nhân, không phải là của cải vật chất tầm thường mà là tinh túy, tinh hoa kết đọng thành tư tưởng vô hình, vô tướng. Chỉ những tâm hồn đồng điệu, đồng thanh tương ứng mới cảm được, mới thấy được giá trị vô lường của tặng phẩm tinh thần thâm thúy đó, để diệu dụng cùng cung bậc đời thường, thanh thản tự do.

Cho nên đi vào cõi thơ là dấn thân vào cõi mộng không lời, là phiêu lưu mạo hiểm xuống hố thẳm không đáy, là bay lên những phương trời vô xứ cùng tuyệt thiên thanh. Đòi hỏi kẻ lữ hành độc đạo, phải buông xuống sạch sành sanh tất cả những thứ cặn bã của xã hội loài người như được mất, hơn thua, tốt xấu, giàu nghèo, danh lợi, khen chê, đúng sai, phải quấy... Bước nhảy trọng đại đó là bước nhảy chập chùng sinh tử. Có vượt qua gập ghềnh sinh tử được hay không là còn tùy công phu hàm dưỡng của mỗi người.

Đường của thơ là không lộ, đầy cuồng phong, bão táp, đầy lao đao khổ lụy,  đọa đày. Tuy bị đày đọa như thế nhưng vẫn có cái thi vị tuyệt vời, như thiền sư Tuệ Sỹ nhận định : “Người làm thơ, cuộc đời bị đày ải truân chuyên, trong đó cũng có cái ảo diệu của vị chua, vị mặn. Suốt đời học Thiền, suốt đời vẫn đày đọa thân tâm, đày đọa trong cái Không và cái Tĩnh. Đày đọa đó mà kỳ thực không là đày đọa. Cũng vậy, suốt đời làm thơ thì suốt đời khổ lụy lao đao, nhưng không là khổ lụy lao đao. Chỗ ảo diệu đó, chưa đạt đến cõi thượng thừa của thi ca, làm sao hiểu nổi ?”****

Cõi thượng thừa của thi ca ở đâu ? Phải chăng, đó là công án mà mỗi thi nhân phải tự mình đốn ngộ, chứ đừng ngớ ngẩn chạy đôn chạy đáo thưa hỏi, tìm kiếm lung tung. Cứ nhập cuộc chịu chơi, ném mình vào những phương trời gió loạn, cúi sâu xuống tận đáy lòng hun hút cô liêu, diệu vợi của mình, may ra sẽ bùng vỡ mật nghĩa cái chân lý muôn đời.

Trên tinh thần phóng khoáng, tự do đó, người thi sĩ tự bao giờ vẫn nhất thiết kiên trì, vô cùng nhẫn nại. Bước đi lầm lũi khai phá, dốc chí bền gan sáng tạo và sáng tạo kỳ cùng, song hành cùng nàng thơ độc đáo, vô song, như triết gia, nhà thơ Phạm Công Thiện có lần tâm sự : “Làm thơ là hố thẳm xoáy tròn vào cơn bão tố rùng rợn của thơ và chỉ nhìn thấy thơ trên trời, thơ ở dưới đất, thơ trong tim, thơ trong óc não, thơ trong mạch máu, thơ trong hơi thở, thơ trong đời sống, thơ trong cái chết, thơ trong hiện thể, thơ trong vô thể, thơ trong hư vô… Chỉ có thi sĩ mới sống tận bản thân mình, sống phóng tới đằng trước tất cả những khả tính sắp hiện của dân tộc mình.”*****

Thi nhân là kẻ tiên tri thấu thị, một bậc siêu phàm hay một tên khùng điên rồ dại, gọi gì cũng được, họ chẳng bận tâm mà chỉ lao mình vào cuộc đại hòa điệu chơi với đủ mọi hình thức : Tình yêu, đau khổ, điên cuồng… như thi sĩ Rimbaud bộc bạch : “Thi nhân tự biến mình thành tiên tri thấu thị bằng một sự hỗn loạn của tất cả mọi giác quan lâu dài, rộng lớn, phi thường và hợp lý. Tất cả mọi hình thức tình yêu, đau khổ, điên cuồng : Hắn tìm kiếm chính hắn, hắn nuốt trọn mọi độc tố trong hắn để giữ lại tinh túy. Cực hình khôn tả, trong đó hắn cần tất cả sức mạnh siêu nhân, trong đó hắn trở thành kẻ bệnh nhân vĩ đại, kẻ tội nhân vĩ đại, kẻ bị nguyền rủa vĩ đại và nhà bác học siêu phàm. Bởi vì hắn đi tới cái vị tri.”***

Cái vị tri mở ra những phương trời mây trắng bồng bềnh, thênh thang bát ngát, tiêu dao lồng lộng trên cảnh giới bất khả tư nghì. Thi sĩ và thiền sư cùng lao đao và cùng tiêu sái trong cõi trầm mặc phiêu nhiên. Tuyệt thay là phong cách nhào lộn tồn sinh, rốt ráo tột độ của những tâm hồn kỳ dị đã nếm được hương vị vô cực, vô vi :“Thi sĩ rơi xuống cõi đời bơ vơ, bỡ ngỡ và lạ lùng. Không có lấy một người hiểu mình… Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của tình yêu. Tôi đã vui buồn, sướng khổ, giận hờn đến gần đứt sự sống.”*****

Thi sĩ Hàn Mặc Tử đã nói như thế và Phạm Công Thiện diễn giải : “Khi nào mình “đến gần đứt sự sống” rồi thì mới biết Thơ là cái gì, mới biết làm thơ, mới biết đọc thơ. Khi mình chưa “đến gần đứt sự sống” thì không được quyền nói bất cứ điều gì về Thơ, về Thi Ca, về Thi Sĩ, về Thi Nhân…”*****

Phải chăng, đó là một thái độ vô cùng cẩn trọng đối với Thơ, được phát biểu bởi một thiên tài kỳ tuyệt ? Trong khi bây giờ, có một số người thiển cận tỏ ra xem nhẹ, rẻ rúng, xuyên tạc thi ca truyền thống ngàn đời của dân tộc. Chúng tổ chức thành hội này, nhóm nọ, cố tình phá hoại nền văn nghệ đích thực, bằng đủ mọi hành vi đen tối, rồi còn ra mặt hỗn láo, vô lễ, sừng sộ với tổ tiên, tiền bối, lôi cả thi hào Nguyễn Du ra bôi bác, lại dám cả gan sửa đổi hàng ngàn từ ngữ trong kiệt tác Truyện Kiều nữa chứ ! Hỡi ôi ! Cái bọn hồ đồ ấy còn lên giọng chê bai, chửi bới, đả kích, khinh thường những thi sĩ, những người làm thơ, coi thơ như một thứ gì vô bổ, vô ích, vô nghĩa, đáng ném vào sọt rác, vì lạc điệu giữa cuộc sống thực tế đầy xô bồ, hỗn độn, gần như máy móc, vô cảm hôm nay.

Vậy đó mà Phạm Công Thiện vẫn mặc kệ, vẫn trọn lòng tin cậy vào sự huyền nhiệm của thi ca và kiên nhẫn, kiên nhẫn ba la mật, khuyến khích chúng ta một cách đọc thơ như trì tụng kinh điển, để tự thâm nhập sâu xa cái thâm mật ở chính trong hồn sâu thẳm của mình : “Đọc thơ cũng giống như đọc kinh. Phải thọ, trì, đọc, tụng, Đọc không phải để hiểu mà để biết. Biết cái thâm mật của một giây phút thoáng qua nhanh chóng hơn ánh sáng và biết cái thâm mật của tam thiên đại thiên thế giới, của vô số hằng hà tỉ tỉ thiên hà trong lòng ta và ngoài kia không gian phiêu dật. Mà chính lòng ta là tất cả không gian phiêu dật…”*****

Không những thế, Phạm Công Thiện còn hồn nhiên tụng ca Thơ, tán thán Thi Ca bằng một niềm tin tưởng tuyệt đối : “Nói đến Thơ không khác gì nói đến Thượng đế. Phê bình Thơ là làm việc phạm thánh, là “blaspheme.” Những thi sĩ không phải là loài người, họ là những thiên thần, những thánh hoặc những quỷ ma. Nếu ta không chấp nhận họ được thì thôi, ta không được quyền có thái độ của học giả hay giáo sư hoặc nhà phê bình. Phải giết hết những kẻ phê bình để cho Keats sống, để cho Chatterton đừng chết lúc mới 18 tuổi xuân xanh !

Anh không thể cảm thơ người ta thì hãy im lặng, còn nếu cảm được thì anh hãy tha thiết ca ngợi, đừng e dẻ, giữ gìn gì cả. Không nên có những nhà phê bình thơ mà chỉ nên có những kẻ ca tụng thơ. Thơ là của riêng từng người, không có ai làm thầy ai cả.”******

Giữa thời buổi nhiễu nhương, văn chương, văn nghệ hầu như không còn giá trị gì nữa mà vẫn còn người yêu thi ca như vậy, quả thật là hy hữu phải không ? Buồn quá ! Sa mạc, hư vô đang lan dần trên đất mẹ, quê hương, trên khắp cả quả địa cầu hoang vu này rồi, bọn quỷ dữ, ác ma đã xuất hiện rầm rộ, chúng giết người hàng loạt, dùng mọi thủ đoạn, lừa đảo, ám sát, khủng bố, đầu độc không trừ một thứ chi hết. Toàn bộ nền văn minh nhân loại của thế kỷ XXI  đang gieo rắc sự chết, tiến bộ gieo sự chết, khoa học gieo sự chết, tôn giáo gieo sự chết, chủ nghĩa gieo sự chết, xã hội gieo sự chết, chính trị gieo sự chết, kinh tế gieo sự chết, văn hóa gieo sự chết, giáo dục gieo sự chết…

Hầu hết loài người trong thời hiện đại đều đang quay cuồng trong cơn túy sinh mộng tử, điên rồ cố giành giật đất đai, lãnh thổ, cố mở rộng, bành trướng tôn giáo, cố tuyên truyền chủ nghĩa, đảng phái, học thuyết và tất nhiên là xung đột quyết liệt. Họ cố tàn sát đẫm máu lẫn nhau, bằng đủ mọi âm mưu thâm hiểm, độc ác, tinh vi như lời thơ tiên tri của Nguyễn Du, bậc đại thi hào dân tộc :

Mặt ngoài thơn thớt nói cười
Mà trong nham hiểm giết người không dao

Chao ơi ! Sống trong thời buổi điêu linh như vậy, một cõi nhân gian bi đát, tan hoang như thế, hỏi sao người thi sĩ không cảm thấy lạc lõng, bơ vơ cho được ? Họ vô lường thương cảm, xót xa, đành rời quê nhà, bỏ xứ sở, làm kẻ lang thang tuyệt mù viễn xứ như Phạm Công Thiện, muốn điên cuồng kỳ dị như Bùi Giáng, hay tuyệt nhiên im lặng, mặc như lôi như Tuệ Sỹ và cuối cùng, chỉ còn biết âm thầm sáng tạo, lặng lẽ làm thơ như muốn thắp lên một ngọn lửa tình yêu diệu huyền, xanh biếc thiết tha trên sa mạc khô cằn của nhân loại.

Nói như văn hào Hermann Heese : “Dù có bị đau đớn, quằn quại, tôi vẫn yêu thương trần gian điên dại này.”******* Cho nên thi nhân vẫn hạo nhiên chi khí, tự nguyện đi vào địa ngục trần gian, đốt bừng lên đuốc lửa tuệ quang, sáng ngời vô úy, thổi vào hồn tồn lưu một ngọn lửa tình thương yêu vô điều kiện và hòa âm thâm mật trên cung bậc thi ca.

Thi ca là suối nguồn bất tận, chảy hoài từ thiên vạn cổ đến nay, như nhà thơ Saint John Perse tỏ bày trong dịp nhận giải thưởng Nobel văn chương năm 1960 : “Người thơ đã có trong con người ăn lông ở lỗ, người thơ vẫn sẽ có trong con người thời nguyên tử, vì người thơ là một phần tử bất khả phân của con người. Chính từ sự đòi hỏi của thơ, của tâm, làm phát sinh tôn giáo và nhờ duyên thơ mà tia lửa thiêng sống mãi trong khối đá người. Khi mọi thần thoại sụp đổ hết thì thơ là chỗ ẩn cuối cùng của cái tối linh.”********

Tình yêu, tình thương là điệp khúc, là bản trường ca miên viễn, bất tuyệt của thơ mà sứ mệnh người thi sĩ sáng tạo phải giữ gìn, xiển dương, làm cho phục hồi, sống dậy mãnh liệt, ý lực bừng lên huy hoàng, sáng suốt, tuôn trào vô lượng vô biên. Hãy đốt hồn thơ thiêng liêng, cháy rực ngời ngọn lửa cảm xúc, rung động thiên thu, để nghe nhịp thở bồi hồi giữa bầu khí hậu thanh tân, phấn chấn, hân hoan yêu đời trong tiếng hát đại bi tâm. Tiếng hát đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả ấy mãi hoài ngân vọng trong lòng người từ muôn thuở đến muôn nơi, trên mặt đất trần gian vẫn còn thơ mộng này.

Tâm Nhiên

* Bùi Giáng. Sa Mạc Trường Ca. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1970
** Raner Maria Rilke. Thư Gởi Người Thi Sĩ Trẻ Tuổi. Hoàng Thu Uyên dịch. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1969
*** Nguyễn Hữu Hiệu. Con Đường Sáng Tạo. Hồng Hà xuất bản, Sài Gòn 1973
**** Tuệ Sỹ. Tô Đông Pha Những Phương Trời Viễn Mộng. Ca Dao xuất bản, Sài Gòn 1973
***** Phạm Công Thiện. Một Đêm Siêu Hình Với Hàn Mặc Tử. Trần Thi xuất bản, California 2006
****** Phạm Công Thiện. Ý Thức Mới Trong Văn Nghệ Và Triết Học. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1966.
******* Hermann Hesse. Câu Chuyện Dòng Sông. Phùng Khánh dịch. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1969
******** Huyền Giác. Chứng Đạo Ca. Trúc Thiên dịch. Lá Bối xuất bản, Sài Gòn 1970






TRỜI THƠ ĐẤT MỘNG PHIÊU BỒNG THI CA




Sương mù bàng bạc ùn lên lãng đãng trộn lẫn với ngàn mây trắng bao la, hòa quyện cùng hương rừng gió núi, chập chùng trên tuyệt đỉnh Hy Mã Lạp Sơn, chờn vờn ngất tạnh bay quanh pháp hội Linh Sơn vào một thời xa xưa, cách đây mấy nghìn năm rồi mà tưởng chừng như mới hôm nào, vẫn còn nghe văng vẳng những lời thơ bất hủ của Thế Tôn vang vọng trầm hùng :

Hữu vi pháp hiện trùng trùng
Như huyễn như bọt nước tung vỡ rồi
Như ánh chớp như sương rơi
Thường quán như vậy nhẹ vời phiêu nhiên

Tất cả vạn pháp trong vũ trụ như nhật nguyệt, rừng núi, biển sông, con người… đều như huyễn mộng bọt nước, như chớp lóe sương rơi. Hãy quán tưởng thường xuyên như vậy. Một khi thấy rõ tận tường như thế là thể nhập tự tánh Không của vạn hữu  để xa lìa mọi cố chấp tham đắm, bám víu dựa nương :

Nương âm thanh sắc tướng
Để cầu thấy Phật Đà
Kẻ ấy hành tà đạo
Chẳng bao giờ thấy ta

Qua sắc tướng, âm thanh để chiêm ngưỡng nhìn ngắm, cầu nguyện tôn thờ Đức Phật thì kẻ đó chẳng bao giờ hiểu Phật, thấy được Phật, vì đã vô tình lạc vào chốn đạo tà ma quỷ sứ mất rồi, rơi xuống nẻo hướng ngoại tầm cầu, vọng tưởng mơ hồ huyễn hoặc đâu đâu. Chính Đức Phật đã nhắc nhở chúng ta một cách khẩn thiết như thế, bằng những lời thơ súc tích tịch lặng mà sấm sét như trời long đất lở, vang dội cực kỳ làm vỡ bùng mê ám cho tâm thức bừng dậy thấy suốt muôn nơi. Rồi trên pháp hội Hoa Nghiêm điệp trùng hùng vĩ núi rừng cao xanh vách đá, vào một sớm tinh sương mùa hạ, Thế Tôn lại mỉm cười đọc mấy lời thơ mở bày sáng tỏ :

Nếu người muốn biết rõ
Chư Phật khắp ba đời
Hãy quán pháp giới tánh
Đều do tâm tạo thôi

Ơi chao ! Hết thảy mọi cảnh giới Phật ma, thánh phàm, thiện ác, khổ vui… chỉ một bài thơ này là bao gồm đầy đủ toàn diện rồi. Pháp giới trùng trùng vô tận, nhưng tựu trung cũng đều luân lưu trong mười pháp giới : Phật, Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn, Trời, Người, A tu la, Ngạ quỷ, Súc sanh, Địa ngục, vốn chẳng có tự thể, chẳng có tự tánh. Tất cả đều do một tâm niệm của mình tạo ra mà thôi.

Nói đến cái tâm của chúng ta cũng như hư không chẳng ngằn mé, vốn là thanh tịnh trong sáng, chẳng có hình dạng, chẳng có nơi chốn, vốn là bất sanh bất diệt, bất động bất biến. Tuy bất biến mà cũng tùy duyên, vì tùy duyên mà sinh động, linh hoạt và sáng tạo vô cùng. Thong dong trên cung cách khoan hòa độ lượng, Thế Tôn ôn tồn tiếp tục đọc thơ khai thị vi diệu nghĩa tuyệt trần :

Nếu người muốn biết cảnh giới Phật
Ý căn thanh tịnh như hư không
Xa lìa vọng tưởng và chấp thủ
Thì tâm vô ngại giữa trần hồng

Cảnh giới Phật là gì ? Đó là cảnh giới bất khả tư nghì, không thể lý giải chi được, trừ khi mình chứng ngộ. Tuy nhiên cũng có thể hiểu và thấy ra thật tướng của muôn vạn pháp là tánh Không, vốn không sinh cũng không diệt, chẳng đến cũng chẳng đi, thấy một là tất cả, tất cả là một, thấy vui buồn, sướng khổ, được mất, hơn thua, có không, sống chết… đều vô ngại, tự tại thì đấy chính là cảnh giới Phật vậy. Do đó, cảnh giới Phật luôn luôn hiện hữu ở đây và bây giờ giữa thực tại hiện tiền. Sở dĩ mình chẳng thấy, vì  ý căn chưa được thanh tịnh, suốt ngày cứ dấy khởi đủ thứ điên đảo, vọng tưởng mãi thì làm sao thấy được phải không ?

Vậy thì, muốn thấy cảnh giới Phật, chúng ta chỉ cần chuyển hóa các thứ vọng tưởng, điên đảo, vô minh chấp trước ấy, xoay trở về thể tánh tự nhiên, khiến cho mọi ý căn đều thanh tịnh như hư không. Lúc đó tuệ nhãn tự nhiên bừng chiếu, liền thấy vũ trụ là cảnh giới Phật, trời đất là cảnh giới Phật, núi rừng biển cả, sông suối bụi cát, mưa nắng gió mây, cỏ hoa người vật… không nơi nào là chẳng phải cảnh giới Phật. Tất cả sơn hà đại địa, vạn pháp trùng trùng… đều là đạo tràng thanh tịnh, nếu tâm mình thanh tịnh Nhất Như.

Trên tinh thần giải thoát siêu việt đó, kỳ diệu thay, tiếng thơ đại hùng, đại lực, đại từ bi của Thế Tôn đã mở ra những phương trời cao rộng mông mênh hoằng viễn. Kể từ đó, nguôn thơ thiền bắt đầu phát sinh mãnh liệt dữ dội, trôi chảy tuôn trào bất tuyệt, miên man quá cùng bát ngát giữa thiên thu vạn đại rạt rào. Vào đầu thế kỷ thứ I, ở xứ sở u huyền Ấn Độ xuất hiện thiền sư Mã Minh với tập thơ Phật Sở Hành Tán dài hơn 9000 câu thơ ngũ ngôn, tán thán ca ngợi cuộc đời và tư tưởng Đức Phật. Bản trường ca kết thúc bằng mấy vần thơ trong sáng :

Tán thán đức Thế Tôn
Suốt cuộc đời hành đạo
Để chuyển hóa chúng sinh
Được an lành giải thoát

Giải thoát là hương vị tuyệt vời của nguồn thơ thiền, cứ mãi mãi quyện hòa trong không khí, thoảng ngát chan chứa giữa lòng người khắp mọi miền chốn cõi nơi nơi, qua các thiền viện am cốc, đô thành thị tứ, sơn dã làng quê. Hương vị giải thoát ấy thấm sâu vào trái tim nhân loại, làm tan đi xiết bao phiền não khổ đau, xiết bao những đục ngầu, u minh mịt mùng tăm tối.

Nối tiếp mạch nguồn giải thoát đó, đến gần cuối thế kỷ thứ VI ở Trung Hoa, thiền sư Huyền Giác ( 665 - 713 ) từ nơi thảo am hoang vắng tịch liêu, cạnh bên dòng sông xanh quạnh quẽ cô tịch, bỗng cất lên tiếng hát động trời Chứng Đạo Ca hùng tráng, vang ầm, rung chuyển, rền ngân trên cung bậc tối thượng thừa. Thi phẩm Chứng Đạo Ca dài 266 câu thơ thất ngôn, tuy ra đời cách đây hơn 15 thế kỷ nhưng thần lực của thơ vẫn còn tinh khôi mới mẻ, rực ngời ngọn lửa thiêng trong tim hồn rưc rỡ, mở đầu bằng mấy câu thơ nhảy tung vào đốn ngộ bản thể tự thân :

Dứt học vô vi ấy đạo nhân
Không trừ vọng tưởng chẳng cầu chân ?
Tánh thưc vô minh tức Phật tánh
Thân không ảo hóa tức Pháp thân
Pháp thân giác rồi không một vật
Vốn nguồn tự tánh thiên chân Phật
Năm ấm ảo hư mây lại qua
Ba độc huyễn hoặc bọt còn mất*

Tuyệt đối chẳng còn chi phải học nữa, bậc liễu đạt là người hoàn toàn vô sự, nhàn nhã, vượt qua thế giới nhị nguyên, hết còn phân biệt chân vọng, bởi thấu hiểu vọng chân đều huyễn hóa. Chẳng nhọc lòng tiêu diệt vọng tưởng hay truy tìm chân lý, chân tâm gì thêm. Tâm thể vốn hiện hữu sờ sờ, đang tỏa chiếu hào quang sáng rực ngời ra đó từ muôn thuở, muôn nơi rồi. Mê thì không thấy, ngộ thì hoát nhiên thấy ngay trước mắt rõ ràng. Ngộ rồi mới thông suốt lẽ “Tánh thật vô minh tức Phật tánh. Thân không ảo hóa tức Pháp thân.” Thật ra cũng dễ hiểu, bởi vô minh chỉ là một khái niệm không có tánh riêng biệt nào cả mà chỉ do mình bỏ quên, chẳng biết có Phật tánh, nên tạm gọi là vô minh thế thôi.

Khi tuệ giác quán chiếu bùng vỡ, lập tức tánh Phật hiển lộ huy hoàng thì vô minh tan mất. Cũng vậy, thân huyễn hóa và Pháp thân chẳng đối lập gì nhau mà vốn là bất nhị, Pháp thân ở ngay trong thân ảo hóa này, chứ tuyệt nhiên chẳng ở một nơi chốn nào khác tận ngoài xa kia. Thiền sư liễu ngộ Pháp thân Phật tánh, nhìn đâu cũng thấy không có một vật nào chướng ngại, nên thõng tay vào chợ, tùy duyên hóa độ chúng sinh, chỉ rõ cho họ biết năm ấm ( sắc, thọ, tưởng, hành, thức ) ba độc ( tham, sân, si ) như ảo ảnh, huyễn mộng, như bọt nước mong manh chẳng thật.

Đừng lầm chấp thật mà sinh tâm dính mắc, ham muốn rồi tranh giành, chiếm hữu, đưa đến căm thù, nhẫn tâm tàn sát lẫn nhau, gây bao đổ nát tang thương, sầu hận chất chồng, tạo nghiệp mãi trong vòng sinh tử luân hồi. Rỗng rang buông xả, thư thả hòa chung nhịp bước, viên dung đôi bờ sống chết, có không, mộng thực… giữa chốn miền thanh thản, tự do đó, có biết bao đạo sư, hiền nhân, ẩn sĩ, đại trượng phu lẫm liệt đi về hòa tấu khúc Chứng Đạo Ca.

Làm sao kể hết được những tâm hồn thượng đẳng, hoằng đại ấy, những con người siêu việt đã khơi dậy sự sống nhiệm mầu, thưởng thức niềm hân hoan tối thượng của cuộc sống toàn diện như đại sư kỳ vĩ Milarepa ( 1052 – 1135 ) ca hát vang lừng những bài thơ phát khởi từ một trí tuệ nhìn thấu suốt ba nghìn thế giới. Tiếng hát, lời ngâm trầm hùng như sư tử trên các triền núi cao nguyên bạt ngàn Tây Tạng, tiếp giáp với mây trời vần vũ thiên thu. Những bài thơ xuất thần bay bổng, lồng lộng tràn đầy ánh sáng quang minh rạng chiếu ngời ngời :

Nhất quyết xa lìa ngã tướng là vui
Từ bỏ lòng yêu quê hương, xứ sở là vui
Thoát khỏi luật lệ làng xóm là vui
Chẳng làm kẻ cắp của cải tầm thường là vui

Không có lý do để tham đắm là vui
Có nhiều hiểu biết phong phú tinh thần là vui
Không phải khốn khổ vì kiếm ăn là vui
Cứ an nhiên tự tại, chẳng lo bị mất mát gì cả là vui

Chẳng lo bị suy đồi, trụy lạc là vui
Có tín tâm thâm hậu, sâu xa là vui
Vô ngại đối với tư lợi của kẻ bố thí là vui
Giúp đỡ nhiệt tình, không chán nản là vui

Không sống lừa đảo, giả trá là vui
Thể hiện tín tâm bằng mọi hành vi là vui
Thích du hành chẳng mệt mỏi là vui
Không sợ chết thình lình là vui

Chẳng lo lắng bị cướp giật là vui
Thấy tinh tấn trên đường đạo là vui
Tránh hành động độc ác, xấu xa là vui
Cần mẫn hiếu thảo, thuận hòa là vui

Vắng lặng tánh tham lam, sân hận là vui
Chẳng kiêu ngạo, ganh ghét, tỵ hiềm là vui
Thoát khỏi hy vọng và sợ hãi là vui
Làm chủ điều động tâm thức, ý thức là vui

Và giải thoát sinh tử là niềm vui hân hoan, cực lạc Niết bàn**

Bản hoan ca nhập cuộc siêu thoát, đại hòa điệu chơi với cõi ta bà, hòa âm thấm thía nguồn vui lai láng, tràn ngập trong thi phẩm Gởi Lại Trần Gian của Milarepa vẫn còn mãi đồng vọng giữa lòng nhân thế xưa nay.

Không thể nghĩ bàn là tiếng thơ của một con người sống trên mặt đất. Giữa thiên thanh vĩnh thúy, tiếng thơ ấy tự bao giờ đã bay lên đồng vọng mông mênh trên cung bậc hùng tráng như tiếng hát đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, phát xuất từ một tuệ giác siêu phàm nhập thánh khác, cũng của Phật giáo Mật tông Tây Tạng, đại sư Langri Thangpa Dorje Senge qua Tám Đoạn Thi Kệ Chuyển Hóa Tâm Thức. Một bài thơ linh diệu được truyền tụng khắp vùng lục địa Châu Á, được chính đức Đạt Lai Lạt Ma và tất cả mọi thánh triết, hiền nhân trên thế giới đều học thuộc lòng và thường xuyên miên mật áp dụng thực hiện. Nguyên tác tiếng Tây Tạng, nhan đề Blo-Sbyong Tsig-Brgyad-Ma do Phạm Công Thiện chuyển dịch sang Việt ngữ :

I

Quyết tâm thành tựu
Sự hạnh phúc rộng lớn nhất cho tất cả sinh vật
Điều này còn hơn cả viên ngọc như ý
Tôi nguyện sẽ thường xuyên, liên tục thương yêu, quý mến hết thảy mọi chúng sinh

II

Khi chung đụng với người khác
Tôi tự xem mình như là kẻ thấp hèn nhất trong mọi người
Và trong tận đáy lòng sâu thẳm của tôi
Luôn luôn trân trọng, kính quý những kẻ khác, coi họ như tối thượng

III

Quán chiếu, xem xét sự lưu chuyển liên tục của tâm thức tôi trong tất cả mọi cử chỉ, hành động
Nếu một lúc nào đó, có nỗi ưu sầu, đau đớn nào đột nhiên phát khởi dậy
Gây tai hại cho chính tôi và cho những kẻ khác
Tỉnh thức đối mặt, nhìn thẳng vào nỗi phiền não ấy, tôi liền chuyển hóa, làm tan biến nó đi

IV

Khi chạm mặt với một người có tâm địa ác độc
Với người ngu si bị sai khiến, điều động bởi những điều nham hiểm, gian trá và bởi nhiều sự tàn bạo, điên rồ
Tôi vẫn quý thương, ngưỡng mộ người ấy, người thực khó thấy
Giống như mình bắt gặp một kho tàng trân châu vô cùng quý báu

V

Khi những kẻ khác vì ghen ghét, đố kỵ
Đối đãi tôi tệ bạc, sỉ nhục, lăng mạ, chửi rủa tôi đủ điều tàn nhẫn
Tôi cũng hoan hỷ chấp nhận những tiếng lời nặng nề, ghê gớm của họ
Và nhường cho họ hoàn toàn sự đắc thắng

VI

Khi có một người mà tôi giúp đỡ tận tình
Tôi đặt hết niềm hy vọng lớn lao vào người ấy
Nhưng rồi, chính người ấy lại giáng xuống đầu tôi bao nhiêu tai họa khủng khiếp
Tôi cũng xem người ấy như một người bạn tâm linh cao tột, như một bậc thầy, một thiện tri thức đúng nghĩa của tôi

VII

Nói gọn lại, tôi xin hiến dâng, trao tặng lợi ích tốt lành, hạnh phúc trọn vẹn cho hết thảy những người mẹ, mọi mọi mẫu thân
Trong cuộc đời này và trong cả sự luân lưu, tiếp diễn miên trường, vạn đại mai sau
Và một cách kín đáo, tôi xin chịu nhận lãnh cho bản thân
Tất cả những tai nạn, khốn khổ, lao đao của tất cả những người mẹ tôi

VIII

Hơn nữa, vì không nhiễm dính vào tám cơn gió loạn của thế gian như được và mất, khen và chê, sướng và khổ, danh thơm và tiếng xấu
Bởi nhìn thấy rõ ràng, tường tận tất cả những hiện tượng trong vũ trụ, nhân sinh đều là huyễn hóa, huyễn hoặc
Tôi liền thoát khỏi sự chấp trước, bám viu và được giải phóng, giải thoát khỏi mọi sự nô lệ, buộc ràng của thế gian***

Chuyển Hóa Tâm Thức là một bài thơ kỳ vĩ, bất khả tư nghì, do đạo sư Langri Thangpa Dorje Senge ngâm nga vang lừng trên những dãy núi cao nguyên, tuyệt mù tuyết phủ Hy Mã Lạp Sơn, rờn lạnh. Tiếng thơ ngân rền vang dội ầm ầm sấm sét, vọng xuyên qua đèo cao lũng thấp, chập chùng xuống vùng châu thổ, phố thị, làng mạc, bình nguyên…

Tiếng thơ thần diệu, vô tiền khoáng hậu đã âm thầm chuyển hóa tâm hồn tột độ, rốt cùng, toàn diện, thể hiện một tâm đạo Bồ đề tâm tối thượng thừa bao la hoằng viễn, vô lượng vô biên. Huyền đồng cùng tự tánh thanh tịnh, nhất như bình đẳng, độc đáo vô song. Bồ đề tâm thâm hậu như Phạm Công Thiện diễn đạt tuyệt hảo : “Bồ đề tâm trong nghĩa phi thường tuyệt đối là chứng nhập, liễu tri vô tự tính của tất cả mọi sự, tức là Không Tính. Nghĩa là Đại Trí xuyên thấu đại mộng, xuyên vào tất cả những huyễn hóa giả hiện của tất cả những gì xảy ra trong nội tâm, trong vũ trụ và cả ngoài vũ trụ bao la vô hạn.”***

Trăng ngàn mây nước chảy tuôn nguồn mạch suối thiền qua nhiều sa mạc hoang vu, len lỏi quanh co, gập ghềnh khúc khuỷu, chịu đựng tuyết băng thử thách, lách mình qua nhiều trắc trở gai chông… Dòng thiền vi diệu, trong trẻo thanh lương đã vượt qua bao rừng núi mịt mù sương phủ, rồi đổ xuống vùng bờ biển xanh biếc Việt Nam, tựu thành một nhánh Thiền Trúc Lâm Yên Tử từ cuối thế kỷ XII kéo dài mãi tận đến bây giờ. Sơ Tổ Trúc Lâm Điều Ngự Giác Hoàng ( 1258 - 1308 ) trước kia là vua Trần Nhân Tông, năm 40 tuổi ( 1298 ) nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông và phát tâm đại nguyện xuất gia, quyết chí lên đỉnh núi rừng thiêng Yên Tử học đạo với các bậc thầy thâm hậu.

Tuyệt diệu làm sao ! Đấng quân vương thượng đẳng, lặng lẽ trút bỏ ngai vàng, điện ngọc lên đường, thực hiện một bước đi phi thường, chọn am mây nhập thất, dụng công quyết liệt, hành trì miên mật và đã trở thành một vị thiền sư uyên áo với khúc hát Cư Trần Lạc Đạo an nhiên :

Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Hễ đói thì ăn mệt nghỉ liền
Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền

Chỉ cần 4 câu thơ thôi, đủ nêu bật yếu chỉ của Thiền tông. Sống giữa đời bằng thái độ vô tư, vô chấp, cứ tùy hỷ, tùy duyên thì mọi việc đều rỗng rang trôi chảy. Tự tri, tự biết trong tâm mình vốn sẵn đủ trí tuệ rồi, nên không còn chạy kiếm tìm chi nữa. Bản tâm này là kho tàng châu báu vô lượng, dùng hoài chẳng bao giờ hết. Vậy hãy quay về mở cửa lòng ra mà tha hồ sử dụng. Cứ ung dung với nụ cười tỉnh thức, trong lòng không nhiễm vướng, trước muôn sự việc xảy ra thì cần chi phải khổ nhọc hỏi thiền, vấn đạo làm gì thêm hao hơi tổn sức ?
.
Phải chăng, đó là cái thấy thấu thị của Sơ Tổ Trúc Lâm cũng như của Tuệ Trung Thượng Sỹ ? ( 1230 - 1291 ) Một bậc kỳ nhân dị thường làm dậy sóng nguồn thiền ầm vang lên tận đỉnh ngàn cao xanh lồng lộng của tâm linh. Chính vua Trần Nhân Tông lúc còn niên thiếu đã được Tuệ Trung Thượng Sỹ dạy dỗ giáo dục. Hôm từ giã thầy trở về hoàng cung, ngài hỏi : “Yếu chỉ Thiền tông là gì ?” Tuệ Trung Thượng Sỹ trả lời : “Hãy nhìn trở lại nơi mình là phần sự gốc, chứ không phải từ bên ngoài mà được.”

 Đúng vậy, đấy là tự tri tự giác, tự mình trực nhận, đốn ngộ, kiến tánh ngay nơi đương xứ tức chân, chứ tuyệt nhiên không nên hướng ngoại tầm cầu ở đâu đâu  bên ngoài, tận chốn nào xa lơ xa lắc. “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi.” Đức Phật đã nói như thế. Hãy hùng tâm tráng khí, tự tin, quyết chí thì mới có cơ may nhận diện được cái mặt mũi xưa nay của chính mình, như thiền sư Quảng Nghiêm ( 1122 - 1190 ) từng khích lệ : “Làm trai dốc chí xông trời đất. Chớ dẫm Như Lai bước đã qua.”

Hòa nhịp cung cầm như thế, Tuệ Trung Thượng Sỹ đi về thế giới ta bà, rong chơi nhàn hạ vì đã khám phá ra kho tàng ngọc quý ở ngay trong lòng mình rồi. Cầm cây tuệ kiếm Kim Cang ngoạn du thỏa thích, tung hoành ngang dọc khắp nơi, mọi chốn như chỗ không người. Vung gươm tuệ chém đứt những sự phân biệt của đối đãi như có không, sống chết, đến đi, giàu nghèo, được mất, hơn thua, đúng sai, phải trái, chê khen, ghét thương, sướng khổ, thiện ác, trí ngu… Đưa con người trở về với cái đang là, đưa muôn vật trở về Như. Một khi đã mở được kho báu, đẩy cửa vào thực tại hiện tiền, triệt ngộ tự tánh thanh tịnh vô vi, Tuệ Trung Thượng Sỹ phiêu bồng, thõng tay vào chợ rong chơi, thể hiện cái thần khí đặc thù ấy là bài thơ Phóng Cuồng Ca  xuất thần bát ngát :

Trời đất liếc trông hề sao thênh thang
Chống gậy chơi rong hề phương ngoài phương
Hoặc cao cao hề mây đỉnh núi
Hoặc sâu sâu hề nước trùng dương

Đói thì ăn hề cơm mười phương góp
Mệt thì ngủ hề nơi chẳng quê hương
Hứng lên hề thổi sáo không lỗ
Lắng xuống hề đốt giải thoát hương

Mỏi nghỉ chút hề đất hoan hỷ
Khát uống no hề tiêu dao thang
Quy Sơn láng giềng hề chăn con trâu đất
Tạ Tam chung thuyền hề trỗi khúc Thương lang

Thăm Tào Khê hề ra mắt Lư Thị
Viếng Thạch Đầu hề sánh vế lão Bàng
Vui ta vui hề Bố Đại vui sướng
Điên ta điên hề Phổ Hóa điên gàn

Chà chà bóng ngày hề qua khe cửa
Ối ối mây nổi hề mộng giàu sang
Chịu sao hề thói đời ấm lạnh
Đi chi hề gai góc đường quan

Sâu thì nhón gót hề cạn thì dấn bước
Dùng thì phô ra hề bỏ thì ẩn tàng
Buông bốn đại hề đừng nắm bắt
Tỉnh một đời hề thôi chạy quàng

Thỏa nguyện ta hề rỗng rang tĩnh lặng
Sống chết bức nhau hề ta vẫn như thường****

Phóng Cuồng Ca đích thực là bản tiêu dao ca quá cùng thâm thúy. Tiếng hát ấy bay lên từ trái tim rực ngời pháp khí, siêu quần bạt tụy, là điệu thở phiêu nhiên thoát tục giữa bình sinh cuộc sống đời thường. Phóng Cuồng Ca là một thái độ tự khiêm hạ mà cũng biểu lộ tính chất tự tại của một tâm hồn thượng đạt, thấu triệt lẽ tử sinh, là khúc hát ngông nghênh xiêu quàng, nghêu ngao chuếnh choáng, thoát khỏi mọi ràng buộc hạn hẹp nhỏ bé của thế gian, bằng điệu cười hào sảng phóng khoáng, đại quang minh.

Tinh thần giải thoát trác việt của Thiền tông là nguồn cảm hứng thâm trầm, bay dậy khắp muôn phương, thấm nhuần toàn thể thế giới hoàn cầu nói chung và đại lục Châu Á nói riêng, thiền như cánh bướm trắng băng qua đại dương đến tận miền viễn đông xứ hoa Anh Đào Nhật Bản, kết tinh thành thơ haiku, thể hiện tài tình một cách hàm súc, độc đáo qua những bài thơ cô đọng của Basho ( 1644 - 1694 ) một thiền sư thi sĩ phiêu bồng suốt trọn một đời phiêu lãng, rong ruổi dưới trời xanh :

Một lữ khách
Tên tôi là như thế
Giữ nhân gian này

Trần gian là quán trọ cho khách lữ ghé qua, là cõi tạm dừng chân cho thi sĩ nghỉ ngơi, thưởng thức những vẻ đẹp phù du như kiệt tác Con Đường Sâu Thẳm của Basho, hướng về uyên nguyên vĩnh cửu, phơi phới trời mây :

Trên con đường này
Giữa chiều thu nọ
Ai về chẳng hay

Phải chăng, đó là trạng thái vô tâm trước những sự kiện hiển bày ? Có một lần vân du qua rặng núi Phú Sĩ đầy tuyết trắng, Basho ghé trọ một lữ quán, bất ngờ gặp các kỹ nữ đang ngủ say giấc nồng, thi nhân chạnh lòng cảm thương :

Quán bên đường
Các kỹ nữ  nằm ngủ
Trăng và đinh hương

Ta bà cảnh giới thành Tịnh độ là như thế, mắt biếc thiền sư nhìn thấy mà không nhiễm dính chẳng mắc vướng, vẫn thong dong tự do tự tại. Cõi thơ Basho bàng bạc trăng sương, ngạt ngào hoa cỏ, lãng đãng gió mây và chập chờn chim bướm lượn vờn quanh gót du hành trên cuộc lữ thi ca :

Ôi đóa nazuna
Chú tâm nhìn thật kỹ
Bên giậu rào trổ hoa

Mỏi gót lang thang
Quán trọ nào ghé lại
Gặp hoa tử đằng

Giữa cuộc đăng trình
Chỉ còn mộng tôi phiêu phưỡng
Trên cánh đồng hoang*****

Nhẹ nhàng giản dị, những bài thơ tuy ngắn gọn đơn sơ mà vô cùng chơn mỹ, đẹp như những cụm mây trời trong nắng sớm tinh sương hay chiều thu mưa giữa biển đồi xanh lấp loáng, phản ánh nếp sống thiền Nhật Bản. Đối với họ, cuộc sống thường nhật là đạo, bất cứ phương diện nào của cuộc sống như uống trà, cắm hoa, võ thuật, viết chữ, ngao du… đều là đạo là thiền, là thơ là nhạc hết thảy.

Khởi mạch nguồn thơ thiền bắt đầu từ thời Thế Tôn khơi mở trên tuyệt đỉnh Linh Sơn chập chờn phù vân Ấn Độ. Trào tuôn ngút ngàn qua mấy dải sa mac mênh mông vào lục địa Trung Hoa chập chùng sông núi. Trùng trùng điệp điệp chất ngất chợt bừng sáng, dâng lên bềnh bồng sương khói trời mây Tây Tạng xa vời, rồi mênh mang tràn xuống muôn trùng rừng biển Việt Nam đến tuyệt cùng bao la xanh ngần Nhật Bản…Bát ngát mở ra không bờ bến, trên cuộc về vô tận, vô sở trú của các thiền sư thi sĩ dị thường giữa trời thơ đất mộng phiêu bồng thi ca.

Tâm Nhiên

* Huyền Giác. Chứng Đạo Ca. Trúc Thiên dịch. Lá Bối xuất bản, Sài Gòn 1970
** Milarepa. Gởi Lại Trần Gian. Đỗ Đình Đồng dịch. Hiện Đại xuất bản, Sài Gòn 1970
*** Phạm Công Thiện. Nét Đẹp Tinh Túy Trong Sáng Của Đạo Lý Phật Giáo. Thành Phố HCM xuất bản 2002.
**** Tuệ Trung Thượng Sỹ Ngữ Lục. Lý Việt Dũng dịch giải. Mũi Cà Mau xuất bản 2003
***** Nhật Chiêu. Basho Và Thơ Haiku. Văn Học xuất bản 1994


NGUYỄN TRÃI ĐẠI THI HÀO DÂN TỘC





Kể từ buổi khai thiên lập địa tới bây giờ, trên mặt đất hoang vu, mịt mù sương khói còn thấp thoáng những bóng người đi giữa thiên thu vời vợi. Lớp lớp người đến rồi đi trong lặng lẽ chập chùng qua bao thời đại âm thầm. Tuy âm thầm lặng lẽ nhưng vẫn còn đồng vọng khôn nguôi, tận đáy lòng sâu thẳm của mỗi một người trong chúng ta và thắp lên ngọn lửa hào hùng, bừng sáng rực ngời hồn thiêng sông núi miên trường.

Ngược dòng sử lịch Việt Nam, vào đầu thế kỷ XIV nước ta còn gọi là Đại Việt, xuất hiện một con người như vậy. Đó là Nguyễn Trãi ( 1380 - 1442 ) biệt hiệu Ức Trai, một bậc kỳ tài về đủ mọi mặt, văn võ song toàn đã đem hết năng lực, trí tuệ trác việt hiến dâng cho dân tộc. Thiên tài Nguyễn Trãi thể hiện qua mọi lãnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao, tư tưởng, văn hóa và đặc biệt là những kiệt tác thi ca, làm rung động lòng người, khơi dậy ý thiền siêu thoát để vượt qua đôi bờ có không, sống chết…

Trên những bước đường lịch sử mênh mang, sau những rập rình biết bao hiểm họa tồn sinh bức bách, cuộc lữ của thi nhân dẫn về thế giới nội tâm trầm hậu, đối mặt với niềm cô đơn bi tráng của chính mình. Một con người đã từng đau lòng đứt ruột vì cha bị giặc Tàu bắt đem đi, từng nằm gai nếm mật trong rừng sâu suốt mười năm trời kiên trì nhẫn nhục, từng tung hoành ngang dọc khắp chiến trường máu lửa để chống giặc ngoại xâm, từng bàn luận việc quốc gia đại sự với hoàng đế Lê Lợi, từng viết Bình Ngô đại cáo, bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt, từng vào sinh ra tử như Nguyễn Trãi, khi treo ấn từ quan không phải vì chán đời mà để cho chí khí, tâm huyết của mình hoà quyện vào tạo vật thiên nhiên.

Đó là thái độ của bậc đại trượng phu đã chiêm nghiệm toàn cảnh cuộc đời danh lợi, vinh hoa phú quý đều chỉ là huyễn ảo, vô thường, nên quay về im lặng mỉm cười trong phong thái vô ngại, buông xả thung dung. Hùng tâm tráng khí mà vẫn nhẹ mỉm cười, lui về quy ẩn nơi chốn miền hoang dã Côn Sơn, thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay, chấp nhận sống an bần lạc đạo, gác ngoài tai những chuyện thị phi, tị hiềm, những đố kỵ, đa đoan của nhân tình thế thái quá chừng rắc rối rườm rà :

Am trúc hiên mai ngày tháng qua
Thị phi nào đến cõi yên hà
Cơm ăn dầu có dưa muối
Áo mặc nài chi gấm là
Nước dưỡng cho thanh trì thưởng nguyệt
Đất cày ngõ ải lảnh nương hoa
Trong khi hứng động vừa đêm tuyết
Ngâm được câu thần dặng dặng ca

Thật là thi vị làm sao ! Nhà thơ của chúng ta thường chú tâm chăm sóc gìn giữ hồ ao cho nước mãi xanh trong trẻo để những đêm rằm, ngắm trăng lên soi bóng dưới dòng nước biếc, rồi có khi dạo gót quanh hàng rào, xao động cỏ hoa mà xuất thần cảm hứng ngâm nga giữa trời thơ đất mộng. Tiêu dao đến thế là thể hiện một tâm hồn thượng đạt thong dong. Lòng thi nhân thanh bạch đã giũ sạch bụi phù trần, lâng lâng một niềm thanh thản giữa rừng chiều hoang liêu tịch mịch. Thỉnh thoảng đến chốn tùng lâm thưởng ngoạn xem hoa, uống trà đàm đạo. Chủ và khách, tăng và tục cùng vô tâm đối ẩm nguồn thi cảm với thông với trúc, với rừng cao núi thẳm ngát hương trầm :

Giữa bao nhiêu bụi bụi lầm
Xăn tay áo đến tùng lâm
Rừng nhiều cây hợp hoa chầy động
Đường ít người đi cỏ kíp xâm
Thơ đới tục hiềm câu đới tục
Chủ vô tâm ấy khách vô tâm
Trúc thông hiên vắng trong khi ấy
Năng mấy sơn tăng làm bạn ngâm

Từ hữu tâm đến vô tâm là cả một quá trình hành thiền miên mật, ở đây thiền sư và thi sĩ đều vô tâm thì quả nhiên là quá tuyệt vời. Thường kết bạn, giao du với những thiền sư như Đạo Khiêm, Đạo Tấn nên lòng thi nhân cũng không khác chi một vị thầy trên núi cao. Chốn miền Côn Sơn, nơi nhà thơ đang lưu trú cũng tùng xanh trúc biếc, chẳng khác chi cảnh am cốc, chùa chiền, thiền viện. Tuy không xuất gia nhưng thân tâm chẳng hề bị lợi danh buộc ràng, lòng trong sáng như trăng thanh hằng đêm cùng nhà thơ đối ẩm, thấm nhuần tỏa ngát hương hoa quanh vườn mà thường ngày ra tay chăm bón. Hồn đất đai cây cỏ ngân nga hoà tấu khúc reo vui, dưới hồ ao sen lao xao gió lá, trên cành chim bướm ca hót rộn rã líu lo. Thật là nên thơ thú vị, một vẻ đẹp thiên nhiên thuần túy giữa ngày tháng nhàn nhã an lành :

Cảnh tựa chùa chiền lòng tựa thầy
Cứ thân chớ phải lợi danh vây
Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén
Ngày nắng xem hoa bợ cây
Cây rợp chồi cành chim kết tổ
Ao quan mấu ấu cá nên bầy
Ít nhiều tiêu sái lòng ngoài thế
Biết một ông này đẹp thú này

Đấy là tự tri theo thể điệu tiêu sái, tiêu dao du Trang Tử. Tự biết mình là tỉnh thức trong từng giây phút, là pháp thiền Hiện Pháp Lạc Trú mà nhà thơ Ức Trai đang thực tập, đang quán chiếu tự thân và đã nếm được hương vị thanh tịnh bình yên, lạc phúc trên từng nhịp bước nhẹ nhàng, thư thả ung dung. Đúng là nhà thơ đã an lập, an định vững vàng cái tâm của mình trong bất cứ trường hợp nào, dù giữa chốn triều đình phức tạp, nhiều phe phái ganh ghét, tranh giành quyền lực, chức tước, địa vị, thi nhân vẫn xem chốn đó như một quán khách bên đường, đến rồi đi, không bị vướng mắc hệ lụy gì hết nên vẫn an nhiên an lạc như Bụt. Với Nguyễn Trãi, tâm là Bụt, Bụt ở ngay chính nơi lòng của mình đây thôi, chớ vọng cầu chạy tìm kiếm nơi nào xa lơ xa lắc tận đâu đâu :

Chân chẳng lọt đến cửa công hầu
Ấy tuổi nào thay đã bạc đầu
Liệu cửa nhà xem bằng quán khách
Đem công danh đổi lấy cần câu
Thân đà hết lụy thân nên nhẹ
Bụt ấy là lòng Bụt há cầu ?

Tâm là Bụt, Bụt là tâm. Đức Thế Tôn và chư vị Tổ sư đều công nhận như thế và nhà thơ Ức Trai cũng thấy như vậy. Đó là cái thấy tuệ giác, cái thấy tâm thiền nên mọi sự ở đời đều hòa âm đầm ấm, linh động, không còn phân biệt cao thấp, tốt xấu, dở hay, sướng khổ... gì gì nữa, cứ tùy duyên, tùy thuận ra vào :

Có thân thì biết khá làm sao
Lửng vửng công hư tuổi tác nào
Người ảo hoá khoe thân ảo hoá
Thuở chiêm bao thốt sự chiêm bao
Rừng thiền ắt thấy nên đầm ấm
Đường thế nào nơi chẳng thấp cao

Hào khí dị thường, nhà thơ mở đường lên rừng thiêng đỉnh núi, dựng túp lều  tranh, ngồi thiền giữa thâm sơn cùng cốc, chỉ có cọp beo gầm rú, vượn khỉ lượn vờn quanh. Lấy núi non, chim chóc làm bạn láng giềng, lấy mây sớm trăng khuya làm chỗ  trao gởi nỗi niềm tâm sự anh em. Còn gì thanh cao tao nhã cho bằng, còn chi ý nghĩa hơn nữa, phải không ? Bồng tênh giữa cảnh thanh u cô tịch đó, thi nhân làm cuộc hành trình tâm linh đến tận nơi phát xuất dòng suối Tào Khê, nơi mà Lục tổ Huệ Năng đã chỉ rõ cái tự tánh thanh tịnh, cái bản lai diện mục, tức cái mặt mũi xưa nay của con người muôn thuở muôn nơi. Suối Tào Khê mầu nhiệm ấy đã chảy rạt rào về giữa lòng thi nhân và đã tẩy sạch hết mọi phiền não của phàm phu tục tử  phù trần :

Chụm tự nhiên một thảo am
Dầu lòng đi Bắc lẫn về Nam
Rừng thiền định hùm nằm chực
Trái thì trai vượn nhọc đem
Núi láng giềng chim bầu bạn
Mây khách khứa nguyệt anh tam
Tào Khê rửa ngàn tầm suối
Sạch chẳng còn một chút phàm

Bụi phàm tục rơi sạch sành sanh, hiển lộ ra cả bầu trời thơ lồng lộng, bồng tênh thi sĩ đi về qua khắp dặm dài nhân thế, từ chốn cung đình, vua chúa đến miền thôn dã mộc mạc bình dân vẫn phong độ thong dong vô sự, thư thả hòa hài theo cách điệu khoan thai :

Lều nhàn vô sự ấy lâu dài
Đi ở chẳng từng khuấy nhiễu ai
Tuyết đượm trà sương thơ dễ động
Hồ in bóng nguyệt hứng thêm dài

Tinh thần tiêu dao vô sự, viên dung vô ngại tất cả, cứ như thị, như nhiên mà sống với bình thường tâm ấy, chứ đừng mong cầu, chạy tìm kiếm tận đâu đâu những phương trời vọng tưởng xa xăm là cũng đạt rồi, như thi nhân đã từng thấy một cách diệu thường :

Lọ chi tiên Bụt lọ tầm phương
Được thú an nhàn ngày tháng trường
Song có hoa mai trì có nguyệt
Án còn phiến sách triện còn hương

Ngày tháng an cư, tự do nhàn nhã ra vào với từng hơi thở nhẹ nhàng như nước chảy mây bay. Ngay đây là Tịnh độ, Niết bàn, là Hoan hỷ địa thênh thang rồi. Kìa, ngoài song cửa hoa mai hoa đào rộ nở, dưới ao rằm lấp lánh ánh trăng soi. Còn đòi hỏi gì thêm nữa, hỡi những tâm hồn bé nhỏ, ngu ngơ, ngớ ngẩn, cứ mãi lận đận trong đêm dài sinh tử tham si. Hãy lấy kinh sách thánh hiền ra mà soi lại lòng mình đi, cảo thơm cổ lục còn nguyên vẹn nằm chờ mi xem đó. Có phải nhà thơ của chúng ta muốn nhắn nhủ như thế chăng ? Có lẽ tự nhắc nhở chính mình thôi, vì tâm đắc với Tổ sư thiền tối thượng thừa của Bồ Đề Đạt Ma trên đỉnh ngàn Thiếu Thất tuyệt mù bên dòng sông Liêm Khê xanh biếc :

Thiêu hương đọc sách quét con am
Chẳng Bụt chẳng tiên ắt chẳng phàm
Ánh cửa trăng mai thấp thấp
Cài song gió trúc nàm nàm
Đầu non Thiếu Thất đen bằng mực
Dòng nước Lam Khê lục nửa lam
Tiêu sái mấy lòng đà mạc được
Bảo chăng khứng mạc một lòng thơm

Thường tình, người theo đạo Phật thì tán thán Bụt, kẻ theo đạo Lão thì ca ngợi tiên, còn Nguyễn Trãi từ ngày có duyên biết được ba thân : Pháp thân, Báo thân và Hoá thân của Phật thì đã thấy được đường đi chốn đến nên vui vẻ nhẹ hều. Hiểu được người sống lâu như Bành Tổ hay kẻ chết yểu, cũng như người đắc thắng hay thất bại trong tuồng đời hư huyễn đều do nhân duyên, nghiệp báo theo lý nhân quả mà thôi. Biết được lẽ tự nhiên cá thì lội, chim thì bay, thường xuyên tiếp xúc, quan hệ thì thiếu gì bạn bè, siêng năng tinh tấn, chuyên chú đọc sách thì nhanh chóng hiểu đạo thánh hiền. Tất cả đều do mình sáng tạo kiến lập ra, vậy nên linh động, sống ở đâu thì sẵn sàng hoan hỷ vui vẻ ở  đấy theo thể lệ tùy duyên :

Kẻ thì nên Bụt kẻ nên tiên
Tưởng thấy ba thân đã có duyên
Bành được thương thua con tạo hoá
Chim bay cá lội đạo tự nhiên
Có thân mựa lệ phạp bằng hữu
Đọc sách thì xem thấy thánh hiền
Ta nếu ở đâu vui thú đấy
Người xưa ẩn cả nọ lâm tuyền

“Ta nếu ở đâu vui thú đấy” là sống an nhiên với từng giây phút đang là. Chủ đích rốt ráo của đạo Thiền là mỗi người chúng ta hãy tự thực hiện điều cốt yếu này ngay trong cuộc sống hàng ngày của chính mình, ngay ở đây và bây giờ đó thôi. Thi sĩ Ức Trai, phải chăng đã thưởng thức được hương vị thực tại hiện tiền ấy nên chẳng cầu mong danh thơm tiếng tốt, lợi lộc gì thêm nữa, chẳng còn mừng rỡ hay âu sầu, lo sợ trước những được mất, hơn thua, phải trái của trò đối đãi thế gian. Buông xuống danh lợi, bỏ chuyện thị phi, vì đeo mang chi cho mệt nhọc, khi mà về đây giữa chốn lâm tuyền, sớm chiều có sông nước núi rừng xanh biếc ngoài song cửa, có túi thơ bầu rượu phóng khoáng nghêu ngao hát khúc thiên địa vô ngôn. Bài ca không lời hòa giai điệu hân hoan nhàn dật, cần chi đàn sáo xôn xao, vì bạn tri âm hiếm hoi vắng mặt lâu ngày không thấy đến, nên cứ lặng lẽ vào ra nhàn hạ, thung dung cùng hương vị cô liêu một mình độc ẩm. Lòng thi nhân mở rộng niềm thương đến muôn loài vạn vật, đến tôm cá trong ao cũng ngại thả bắt giăng câu :

Danh chẳng muốn lộc chẳng cầu
Được ắt chẳng mừng mất chẳng âu
Có nước nhiễu song non nhiễu cửa
Còn thơ đầy túi rượu đầy bầu
Người tri âm ít cầm nên lặng
Lòng hiếu sinh nhiều cá ngại câu

“Lòng hiếu sinh nhiều” là biểu hiện đại bi tâm, thương yêu vô điều kiện. Một tấm lòng bao dung cùng tận ẩn trong lòng một nhà thơ ở vùng núi rừng Côn Sơn cách đây gần 600 năm, có làm cho chúng ta xúc động mà bỏ đi những cố chấp, tham si, tỵ hiềm, ganh ghét để cùng yêu thương nhau giữa người với người trong cuộc sống hay chăng ? Tiếng thơ hào sảng, hạo nhiên chi khí ngút trời, khơi dậy phong thái rất mực phiêu nhiên và truyền cảm một niềm vui thanh tao cao khiết. Niềm vui ấy như muốn trào dâng lên đến những phương trời lồng lộng, mênh mông bát ngát :

Láng giềng : Trùng trùng mây bạc
Khách khứa : Hai ngàn núi xanh
Có thuở biếng thăm bạn cũ
Lòng thơ nghìn dặm nguyệt ba canh

Lòng thơ mở ra cánh cửa bao la, hòa điệu cùng toàn thể vô tận đất trời. Lấy mây trắng nắng vàng làm bầu bạn láng giềng tâm sự, xem trùng trùng non núi rừng xanh là khách lữ trong cuộc giao tình tương đắc tương tri, còn chi lý thú cho bằng. Với lòng thơ sâu sắc, nhạy cảm quá đặc biệt, thi nhân biết lắng nghe đến tận đáy hồn vạn vật, biết cảm nhận sâu xa, dù chỉ là một đoá hoa dại vô danh bên hồ nước lung linh, giống như Quách Thoại, khi thấy một bông thược dược đứng lẻ loi bên hàng rào thưa vắng, bỗng phát hiện một điều gì vi diệu nên sửng sốt giật mình, vội quỳ xuống cúi lạy thẳm sâu :

Lặng yên bên hàng giậu
Em mỉm nụ nhiệm mầu
Sực nhìn em kinh ngạc
Vừa thoáng nghe em hát
Lời ca em thiên thâu
Ta sụp lạy cúi đầu

Còn Nguyễn Trãi khi nhìn một bụi cây bông bụt lồng bóng nước dưới bờ ao thì bất thần rúng động, khám phá ra được lẽ sắc không :

Ánh nước hoa in một đoá hồng
Vết nhơ chẳng bén Bụt nơi lòng
Sớm mai nở chiều hôm rụng
Sự lạ cho hay tuyệt sắc không

Phải chăng, lúc đó thi nhân đang đi dạo chơi trên một con đường quê yên ả, chợt thấy cây bông bụt in bóng dưới hồ nước ven đường, chợt dừng chân lại ngắm xem. Không ngờ trong một sát na giữa bình sinh hy hữu, nhà thơ bỗng trực ngộ ra lý “sắc tức thị không, không tức thị sắc” của Bát Nhã Tâm Kinh. Đó là lý Bất nhị, bình đẳng không hai, bình đẳng đến chỗ Nhất Như, không còn một chút phân biệt nào giữa sinh tử và Niết bàn, chợ búa và đạo trường, lầu xanh và thiền viện, phiền não và Bồ đề, ngu si và trí tuệ, vô minh và Phật tánh. Thành thử, khi trực thấy “vết nhơ chẳng bén Bụt nơi lòng”“sự lạ cho hay tuyệt sắc không” là thi nhân đã thấu triệt được chân tướng của sắc không rồi vậy.

Thấy cái thân ngũ uẩn ảo hoá cũng tức là cái chơn thật của Pháp thân. Pháp thân và sắc thân đều diệu dụng, ứng hoá từ một nguồn tự tánh thanh tịnh vốn “xưa nay không hề có một vật” nào cả. Thật là tuyệt diệu ! Thấu hiểu được vậy là nhà thơ Ức Trai  đã thấy được thực tại vô ngã của nhân sinh, thực tướng vô tướng của vạn hữu, nên mỉm cười niêm hoa vi tiếu, một nụ cười  vô sự giữa dòng đời luân lưu cuộn trào vô quái ngại.

Ngoài Quốc Âm Thi Tập ( thơ chữ Nôm ) Nguyễn Trãi còn có Ức Trai Thi Tập ( thơ chữ Hán ) là tiếng thơ chan chứa, hòa nhập cùng vũ trụ thiên nhiên, tràn đầy hương vị giải thoát, rực ngời tư tưởng thương yêu. Nguồn thơ tha thiết tiếng lòng chạnh xót xa cho bao kiếp nhân sinh bèo bọt, nói lên niềm xúc động trong dạt dào cảm thông, đồng thời thể hiện tinh thần Phật thiền tự do tự tại, trải lòng ra với trời đất, vạn vật muôn loài bao la hoằng viễn.

Cung bậc thi ca bắt đầu ngân nga trên phím đàn cuộc lữ ngao du qua những bến bờ hoang vắng, dọc ven sông gờn gợn sóng nước lung linh. Nhà thơ neo thuyền lãng tử lại, buộc vào gốc cây trong bóng nhạt chiều tà. Thả bước bồng tênh lên thăm viếng cảnh chùa trên sườn núi tịch mịch hoang sơ, mờ ảo chập chờn sương mù và mây trắng lặng lẽ bay về bao phủ quanh thiền đường rêu phong mát lạnh. Long lanh dòng suối thanh lương, thoang thoảng ngát hương từ những cánh hoa rừng rơi rụng xuống. Truông rừng sâu thẳm vọng lại tiếng vượn hú trong thấp thoáng hoàng hôn. Bóng lá trúc đung đưa vươn dài quyện lẫn với bóng núi cô quạnh thanh trầm. Trong cảnh đó, quả có hàm chứa bao tình ý mà thi sĩ muốn nói một điều gì nhưng rồi bỗng quên lời. Đó là tâm trạng thoát tục, phiêu diêu của thi sĩ, khi đi du ngoạn viếng cảnh chùa Tiên Du trên núi biếc xanh ngàn :

Đoản trạo hệ tà dương
Thông thống yết thượng phương
Vân quy thiền sáp lãnh
Hoa lạc giản lưu hương
Nhật mộ viên thanh cấp
Sơn không trúc ảnh trường
Cá trung chân hữu ý
Dục ngữ hốt hoàn vương

( Thuyền neo bến chiều xế
Vội lên viếng Phật ngời
Mây về giường sư lạnh
Hoa rụng suối hương trôi
Hoàng hôn vượn kêu rộn
Bóng trúc dài núi phơi
Cảnh này thật hữu ý
Muốn nói bỗng quên lời )

Chừng như một mình trong núi xanh ngần vắng vẻ, nhìn bóng trúc ngã dài theo bóng núi rừng chiều, nhà thơ như chợt nhận ra một điều chi vi diệu mà hoát nhiên sực hiểu ý đạo, theo phép trực chỉ của thiền đốn ngộ vô ngôn ? “Cảnh này thật hữu ý. Muốn nói bỗng quên lời.” Trời đất núi sông vốn tịch nhiên, không có lời. Lời nói ngôn ngữ chỉ là phương tiện truyền đạt những cái hữu hạn mà thôi, còn cái vô hạn tuyệt đối, cái Chân Như diệu lý thì bất khả thuyết, bất khả tư nghì, chỉ cảm nhận bằng một tâm trực giác nhạy bén sâu sắc.

Cái đó không thể dùng ngôn ngữ, lời nói diễn tả ra được. Chỉ diễn tả những sự việc bình thường trong phạm vi tri thức mà ai cũng có thể hiểu cuộc đời giống như một giấc mộng kê vàng. Tương truyền, đời Đường có chàng Lư Sinh lên kinh đô dự thi. Trên đường đi ghé quán trọ nghỉ trưa, chủ quán đang nấu nồi kê bên bếp lửa. Lư Sinh mệt quá ngủ thiếp đi một giấc, chợt mộng thấy mình thi đỗ trạng nguyên, được nhà vua gả công chúa cho, nắm quyền một châu quận lớn, sinh con đẻ cái và kẻ hầu người hạ đầy nhà, thật là tốt lành hạnh phúc. Rồi bỗng một trận lũ lụt kinh khủng xảy ra, cuốn trôi hết sạch nhà cửa, vợ con, Lư Sinh hốt hoảng la hét, bừng thức dậy, thấy nồi kê bên cạnh vẫn chưa chín. Ông bàng hoàng mới hay rằng mình vừa nằm mơ, thấy chiêm bao mộng huyễn hư phù :

Thế thượng hoàng lương nhất mộng dư
Giác lai vạn sự tổng thành hư
Như kim chỉ ái sơn trung trú
Kết ốc hoa biên độc cựu thư

( Kê vàng một giấc mộng lồng
Nghìn muôn sự việc thành không cả mà
Ưa vào hốc núi cùng hoa
Dựng lều đọc sách thưởng trà ngâm thơ )

Khi ý thức cuộc đời như huyễn mộng phù du thì không còn chấp thật vào bất cứ điều chi nữa, thi nhân chỉ thích vào một hốc đá ven triền núi cô tịch nào đó, nằm ngâm thơ, đọc sách bên mấy vồng hoa cỏ dại, quanh đồi mây trắng lặng im lìm. Nếm được hương vị cô liêu là niềm vui của bậc dật sĩ thanh cao. Rồi có những ngày ngoạn du phiêu lãng, thực hiện chuyến hành hương sơn hà cẩm tú, viếng thăm các bậc ẩn sĩ, hiền nhân, thiền sư, đạo sĩ trong tận chốn miền thâm sơn cùng cốc, nhà thơ Ức Trai thường giao du với họ nên thỉnh thoảng, họ cũng ghé lại Côn Sơn hoang vắng tịch liêu để cùng nhau đàm đạo, rồi chia tay như bài Tống Tăng Đạo Khiêm Quy Sơn đã chứng tỏ tình tri kỷ bạn hiền :

Ký tằng giảng học thập dư niên
Kim hựu tương phùng nhất dạ miên
Thả hỷ mộng trung phao tục sự
Tiện tầm thạch thượng thoại tiền duyên
Minh triêu Linh Phố hoàn phi tích
Hà nhật Côn Sơn cộng thính tuyền ?
Lão khứ cuồng ngôn hưu quái ngã
Lâm kỳ ngã diệt thượng thừa thiền

( Đã mười năm trước cùng dạy học
Đêm nay gặp lại thỏa hàn huyên
Đời hân hoan quá chừng như mộng
Ngồi trên tảng đá nhắc tiền duyên
Sớm mai Linh Phố về bên ấy
Nghe suối Côn Sơn biết thuở nào ?
Chớ lạ già rồi hay nói lẩn
Thượng thừa thiền kia sẽ dồi trao )

Thượng thừa thiền là một pháp môn cao nhất mà thiền sư Đạo Khiêm đang hành trì. Bài thơ tiễn thiền sư Đạo Khiêm về núi, kể lại cuộc gặp gỡ giữa hai người trong một đêm trùng phùng cùng nhau tâm sự. Kể chuyện xưa cách đây hơn mười năm, tâm đầu ý hợp đến kỳ lạ. Nhắc chuyện cùng nhau dạy học thời còn trẻ đến bàn việc trút bỏ sự đời, đi sâu vào mọi lẽ nhân duyên mà tâm đắc hào hứng. Rồi hẹn một ngày đẹp trời nào đó, về lại núi rừng Côn Sơn đây cùng nghe suối hát chim ca hòa điệu thanh trầm. Lâu ngày mới gặp lại bạn tri âm, nhà thơ hân hoan quá nói đủ thứ chuyện huyên thuyên như lẩn như cuồng, mong bạn hiểu cho. Thôi trước khi từ biệt, nhà thơ phát nguyện, hứa sẽ thực tập theo đạo thiền thượng thừa cho rốt ráo.

Rồi tiếp tục, đường thơ băng qua trăng đèo, qua gió bãi sông xa ngút vời theo mây ngàn vần vũ bay lên trên tuyệt đỉnh núi rừng non thiêng Yên Tử. Nơi vẫn còn dấu chân Trần Nhân Tông ( 1258 - 1308 ) vị Tkhai sáng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử tự thuở nào. Khi thi nhân leo lên đến tận đỉnh cao hùng vĩ thì choáng ngợp trước phong cảnh thiên nhiên đẹp dị thường nên xuất thần ngâm nga :

Yên Sơn sơn thượng tối cao phong
Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng
Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
Tiếu đàm nhân tại bích vân trung
Ủng muôn ngọc sóc sâm thiên mẫu
Quải thạch châu lưu lạc bán không
Nhân miếu đương niên di tích tại
Bạch hào quang lý đổ trừng đồng

( Non Yên trên đỉnh núi trông
Đầu canh năm thấy vầng hồng bừng ra
Vô cùng trời biển bao la
Núi mây cười ngát quanh ta chờn vờn
Chập chùng trúc biếc xanh rờn
Nhũ hương cao thấp bên cồn đá rêu
Nhân Tông dấu cũ tiên triều
Trừng đôi mắt sáng tỏa nhiều hào quang )

Núi rừng Yên Tử thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay. Trên đó có chùa Hoa Yên cao chất ngất, mới tinh sương đã thấy ánh bình minh rực chiếu, nhà thơ thức dậy sớm, phóng tầm mắt thưởng ngoạn bát ngát trời mây, thấy cả biển trời thiên thanh vĩnh thúy, nghe đâu đó tiếng người cười nói hòa lẫn trong mây trắng sương mù loang tỏa chung quanh. Rừng tùng trúc trùng điệp bên khe suối đá và rêu biếc xanh rì. Di tích của vua Trần Nhân Tông vẫn còn ngời sáng với thời gian, trơ gan cùng tuế nguyệt muôn đời mãi mãi.

Bài thơ diễn tả cảnh trí chập chùng, hùng tráng của núi rừng thiêng Yên Tử mà cũng là sự lẫm liệt kiên cường của dòng thiền đặc biệt Việt Nam, do Sơ Tổ Trúc Lâm sáng lập từ năm 1304 đến nay cũng gần 7 thế kỷ trôi qua rồi. Ơi chao ! Hơn 700 năm dài đằng đẵng mà tưởng chừng mới hôm nào, như thi hào Nguyễn Du bàng hoàng bỡ ngỡ :

Tưởng bao giờ là bao giờ
Rõ ràng trước mắt còn ngờ chiêm bao

Rào rạt gió ngàn phương từ vô lượng kiếp thổi về vi vu vi vút cuối nẻo phong trần cuộc lữ, nghe lạnh rờn niềm cô đơn cực kỳ bi tráng của thi nhân. Niêm cô đơn ấy đã chuyển hóa qua ý thiền siêu thoát phiêu nhiên bàng bạc trải rộng bồng tênh từ núi đồi Côn Sơn, nơi quy ẩn của thi nhân đến tận chốn non cao rừng thiên nhiên hùng vĩ kỳ tuyệt Yên Tử, miền chốn Như Như với nụ cười linh hiển thiên thu.

Từ đó, thi sĩ đi về thể hiện sức sống mãnh liệt của một hồn thơ đã uống ngụm nước tận đầu nguồn suối thiền uyên nguyên, nên không ngừng mang trọn tài hoa phong độ hào hùng của bậc đại thi hào dân tộc. Lồng lộng hồn thơ Ức Trai Nguyễn Trãi tiêu sái, tiêu dao, ý thơ đạo vị thâm trầm thấm thía, lời thơ lãng đãng như mây ngàn trong nắng sớm giữa trời thơ bát ngát mênh mông. Dù vụ án Lệ Chi Viên oan nghiệt đã kết thúc xác thân nhưng thần thức, linh thức siêu việt của thi nhân vẫn còn đó, vẫn mỉm nụ cười vô sự, song hành cùng chúng ta trên vạn nẻo đường đời cát bụi phiêu du.

Tâm Nhiên


Thơ Nguyễn Trãi ( chữ nghiêng ) trích trong tác phẩm :
Nguyễn Trãi Thơ Và Đời. Văn Học xuất bản, Hà Nội 1997