Trong Thi Nhân Việt Nam ,
Hoài Thanh nói về thơ : “Từ bao giờ đến
bây giờ, từ Homere đến Kinh Thi đến ca dao Việt Nam , thơ vẫn là một sức đồng cảm
mãnh liệt và quảng đại. Nó đã ra đời giữa những vui buồn của loài người và nó
sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế.” Thật vậy, thi ca là tiếng
lòng muôn thuở muôn nơi, là giọt lệ trộn lẫn với nụ cười, là tiếng thở than,
ngậm ngùi thân phận hay cũng là tiếng hát ca hòa điệu khúc yêu đời. Điều đó
tương ứng với Nguyễn Bỉnh Khiêm, một nhà thơ vĩ đại của dân tộc, một tâm tình
thao thức cuộc sống đồng thời cũng tiêu dao, cao khiết, bồng tênh Mây Trắng như
Bạch Vân cư sĩ là biệt hiệu của nhà thơ.
Thơ là người, thơ biểu lộ tâm hồn con người một
cách trung thực nhất. Từ nghìn xưa đến hôm nay, thơ vẫn là tiếng nói chân thành
xúc động, phát xuất từ sự rung cảm của trái tim, là nhịp thở ban sơ khơi mở tự
tình, muốn bộc bạch cái tâm cái chí, một điều gì phong kín trầm ẩn trong tận đáy
lòng sâu thẳm của thi nhân.
Thân thế Nguyễn Bỉnh Khiêm ( 1491-1585 ) quê gốc
Hải Phòng, sinh ra bên dòng sông lịch sử Bạch Đằng. Một thời nấu sử sôi kinh, đỗ
trạng nguyên, làm quan ở triều đình rồi từ quan, về quê ẩn dật làm thơ, mở
trường dạy học, nghiên cứu Kinh Dịch, tinh thông Lý học, tiên đoán như thần vận
mệnh đất nước, được tôn vinh như một nhà tiên tri lỗi lạc. Người đời thường gọi
là sấm Trạng Trình linh nghiệm, nhưng nổi bật nhất vẫn là những tác phẩm thi
ca, hàng ngàn bài còn thấp thoáng trong sương mù u ẩn.
Lật từng trang Bạch Vân Thi Tập ( thơ chữ Nôm ) chúng ta có thể thấy chân dung Nguyễn
Bỉnh Khiêm đầy kinh nghiệm lịch lãm, từng trải trên đường đời. Một nhà thơ có ý
chí tự do tự lập, dung hòa tư tưởng Phật, Lão, Trang và chan chứa tình yêu
thương nhân loại. Cái hay cái đẹp trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm không những ở chỗ
ngôn từ ẩn dụ hàm ý, cách so sánh đối chiếu thẩm mỹ, ý tứ thâm trầm, phong phú
mà còn ở chỗ nhà thơ đã thể hiện trọn vẹn cả nếp sống bình sinh một cách khéo
léo, tài tình về những thăng trầm, vinh nhục, những thương ghét, khen chê của
con người, về lẽ đời tan hợp bèo mây, vô thường dâu bể của thực trạng xã hội
thời bấy giờ.
Cao hơn nữa, thi nhân đã diễn đạt một quan niệm
triết lý nhân sinh qua tinh thần Phật giáo Thiền tông mà
vào thời đại ấy vẫn còn mới mẻ mới lạ, ít người hiểu thấu đáo, tường tận hết
được cái tinh túy của đạo Thiền. Thật vậy, điểm độc đáo của Phật giáo là thuyết
minh lý vô thường của vũ trụ nhân sinh, sự kiện muôn vật đều vô thường được nhà
thơ Mây Trắng diễn tả :
Lần lữa
ngày qua tháng qua
Một phen
xuân tới một phen già
Ái ưu vằng
vặc : Trăng in nước
Danh lợi
lâng lâng : Gió thoảng hoa
Ngày tháng trôi nhanh như nước chảy qua cầu. Mới
đó mà đã hết thời trai trẻ, tuổi già tóc bạc đến quá mau. Ngoảnh đi ngoảnh lại
sắp hết đời, mới hay rằng tất cả mọi ái ân, hạnh phúc, mọi ưu tư, phiền não từ
xưa nay đều không có thực, chỉ là ảo ảnh như bóng trăng in dưới dòng nước. Cho
nên lòng thi nhân thấy lâng lâng nhẹ nhõm, trút sạch hết danh với lợi, nhục với
vinh, thịnh với suy… vì mọi thứ đó cũng như một cơn gió thổi qua làm lay động
cành hoa mà thôi. Đó là thái độ an tịnh trước lẽ vô thường, sinh diệt biến đổi, dù cho
tuồng đời có vần xoay, biến chuyển, thi nhân vẫn thản nhiên, biết chấp nhận
những gì xảy đến với mình bằng một nụ cười thông hiểu phiêu diêu :
Giàu ba
bữa khó hai niêu
Yên phận
thì hơn hết mọi điều
Khát uống
chè mai hơi ngọt ngọt
Sốt kề
hiên nguyệt gió hiu hiu
Cuộc sống thật ra chỉ đơn sơ, giản dị như vậy
thôi, đói ăn, khát uống, mệt nghỉ. Khát thì uống nước chè sương sớm, sốt nóng
thì ra đón gió cạnh thềm trăng xanh biếc bên hiên. Thiền dạy chúng ta rằng,
mình không thiếu gì hết mà trái lại còn dư thừa nữa, mình dư đủ thứ do vọng
niệm bày đặt ra, do suy tư vẽ vời thêm đấy thôi. Những thứ dư thừa ấy gọi chung
là vô minh, vọng
tưởng, nhưng vọng tưởng, vô minh vốn cũng không có
thật, nên
chẳng cần phải hoài công trừ nó làm chi.
Chỉ cần tự tri tự giác là yên. Tự biết được bản
lai cái tánh Không rỗng lặng của mình thì vô minh tan mất như bóng tối tan biến
dưới ánh nắng mặt trời. Bởi thế, khi về quy ẩn Bạch Vân Am, một miền sơn dã
tịch liêu, thi nhân cảm thấy nhẹ nhàng, thoát khỏi cái áng công danh nặng nề đã
đè nặng một thời trên hai vai kẻ sĩ. Ừ thì thôi vậy, không còn lưu luyến, nấn
ná làm chi nữa, bỏ xuống hết những nhiêu khê thế sự để thưởng
thức khí vị diệu thường giữa
thiên nhiên sông nước, vườn hoa xanh hồng long lanh lấp lánh :
Già đã
khỏi áng công danh
Tự tại nào
âu lụy đến mình
Nhàn được
thú quê dầu nấn ná
Nghĩ xem
thế sự biếng đua tranh
Hồ tây
thuyền nổi hoa mai bạc
Song bắc
cầm xoang vừng nguyệt thanh
Ai hỏi :
Làm chi vui nữa ?
Thưa rằng
: Một sự làm lành
Tất cả đều do tâm tư, suy nghĩ của mình tạo ra,
thi sĩ hiểu sâu xa được điều đó nên phát tâm đại nguyện chỉ làm mọi
việc thiện lành. Đó là niềm hoan hỷ, an vui chơn thật nhất. Niềm vui thong dong
phóng khoáng, không dính dáng đến chuyện thị phi, hơn thua, phải trái của thiên
hạ. Đã về quy ẩn, tất nhiên không còn quyền hành, cho nên chẳng có khách nào
ruổi xe ngựa đến cầu cạnh. Điều thú vị của nhà thơ là không những thương yêu
con người mà còn bầu bạn với loài vật nữa, thể hiện lòng bao dung vô hạn :
Bạn có cá
tôm dầu được thú
Cửa không
xe ngựa bởi không quyền
Ngày ngày
tiêu sái nhàn vô sự
Tuy chửa
là tiên ấy cũng tiên
Thật là tự tại tự
do, an nhiên tuyệt diệu biết bao
! Khi mà : "Ngày ngày tiêu sái nhàn vô sự. Tuy chửa là tiên ấy cũng
tiên.” Phong thái nhàn nhã đó, chẳng khác gì phong thái của thiền sư đốn ngộ thượng thừa. Nhà thơ sớm chiều tiêu
dao vô sự như một tiên ông thanh thản nhàn hạ. Ra vào đến
đi, giáp mặt cùng mọi người, mọi việc mà vẫn thung dung mỉm cười vô sự.
Vô sự như Thiền sư Lâm Tế : “ Con người
vô sự là người đã dừng lại, không còn dính mắc vào một lý thuyết, một giáo
pháp, một đường lối nào nữa hết. Con người vô sự có tự do, có khả năng sống
hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại, không bị bất cứ một cái gì có thể kéo
đi, kể cả lý tưởng độ sinh cứu đời. Bởi vì lý tưởng độ sinh cứu đời cũng có thể
bắt mình chạy đi tìm cầu, bỏ mất giây phút hiện tại, bỏ mất cái tâm sáng chói
và sáu đạo thần quang đang có mặt, vốn là nguồn gốc của tất cả chư Phật.”*
Khi nụ cười vô sự bừng nở là nhà thơ đã sống
trong nguồn hạnh phúc vô bờ. Thở bầu không khí khoáng đạt giữa trời thơ bồng
bềnh, lênh láng như dòng suối reo vui dưới chân đồi đá tảng gập ghềnh, bước đi
của thi nhân đã vượt qua mọi phong ba, bão tố của cuồng nộ, sân si, đã thoát
khỏi mọi đua tranh, giành giật của trò đời tế toái, đa đoan. Hoan hỷ nhẹ mỉm
cười tươi tắn như
lữ khách dạo chơi, trải rộng lòng ra chứa cả trời mây non nước. Bước chân thư
thả hòa âm cùng thánh hiền, trượng phu, quân tử nên đến đâu nhà thơ cũng thấy
ấm áp mát mẻ đầy những cơn gió mùa xuân lồng lộng tương phùng :
Lấy chăng
ai cấm mặc ai dùng
Hễ của tự
nhiên ấy của chung
Non nước
có màu lòng khách chứa
Trúc mai
làm bạn hứng thơ nồng
Chốn điền
viên cũ dầu thong thả
Đạo thánh
hiền xưa luống chốc mòng
Song nhật
chớ rằng đã hổ
Đến đâu
thì cũng có xuân phong
Trong nhà thiền, thường đề cao lòng kiên nhẫn,
đức tính nhẫn nhục và khuyên đừng cố chấp vào nhân ngã. Chúng ta sống ở đời,
tuy chưa phải là Phật Thích Ca nhưng trong mọi việc phải biết rằng người khác
cũng như mình, dù cho họ có lỗi lầm, xúc phạm đến mình thì mình cũng nên nhẫn
nhục chịn đựng, chớ đừng nổi giận, tam bành lục tặc mắng nhiếc, cãi cọ, chửi
bới um sùm rồi hùng hổ, dữ dằn đánh đập lẫn nhau. Nhân ngã là ý niệm phân biệt,
chấp người chấp ta. Thực ra người khác và mình vốn cùng một bản thể, chỉ vì vô
minh, vọng tưởng nên mới chia làm hai. Nhân tức nhân tướng chỉ khách thể, ngã
tức ngã tướng chỉ chủ thể. Thiền tông chủ trương quán
chiếu để xóa bỏ hai ranh giới nhân ngã giữa chủ và khách đó thành vô phân biệt
trí thì sẽ an vui.
Con người chúng ta bị phiền não, khổ đau cũng là do chấp nhân, chấp ngã đó mà
thôi. Lời thơ của thi sĩ giản dị mà thâm thúy rất mực thanh thoát chan hòà :
Chưa dễ ai
là bụt Thích Ca
Mọi niềm
nhân ngã nhẫn thì qua
Lòng vô sự
: Trăng in nước
Của thảng
lai : Gió thổi qua
Kìa khách
xuân xanh khi trẻ
Mấy người
đầu bạc tuổi già ?
Thanh nhàn
ấy ắt là tiên khách
Được thú
ta đà có thú ta
Khi mà lòng mình rỗng rang vô sự, không dính,
không nhiễm vào những cảnh đời lùng bùng tục lụy thì luôn trong sáng như vầng
trăng in dưới hồ nước xanh ngần, dù có tiền tài, danh vọng, lợi lộc đến bất ngờ
cũng xem như không, coi như cơn gió thoảng qua, đừng chấp chặt ôm giữ làm gì.
Kìa xem những người trẻ trung niên thiếu mà không sống trọn vẹn được đến lúc tuổi
già, chính vì trong lòng thiếu đức kiên nhẫn, thiếu sự chịu đựng, kiên trì đó
thôi. Còn riêng người biết sống lương thiện, biết nhẫn nhục thì lúc nào cũng an
nhàn thanh thản như sống ở cảnh tiên. Vui thú cùng thiên nhiên, hân hoan hạnh
phúc cùng với chính mình, trọn một niềm hỷ lạc an lành thanh khiết.
Kiên nhẫn vẫn là một đức tính mà nhà thơ Mây Trắng thực
hiện suốt cuộc đời. Nhà thơ kiên nhẫn chờ đợi thời cơ đến năm 45 tuổi mới đi
thi và đỗ trạng nguyên. Kiên nhẫn làm việc ở triều đình 8 năm, treo ấn từ
quan rồi lại kiên nhẫn ra làm quan tiếp tục giúp đời cho đến ngoài 60 tuổi mới
quy khứ lai từ. Kiên nhẫn, chịu đựng, nhẫn nhục là sự tu hành khổ hạnh cao nhất
trong đạo Thiền, thể hiện lòng đại từ đại bi, đại hỷ đại xả. Chỉ có những tâm
hồn hoằng đại thâm trầm đó mới làm cho cuộc đời này thêm tốt đẹp hơn lên. Trên cung bậc thi ca, chúng ta lại lắng nghe những giai điệu tài hoa của thi nhân ngân vang lên dưới những bước đi vượt qua mọi chông gai danh lợi, được mất, hơn thua một cách
ngoạn mục
nhẹ nhàng khoan
thai :
Dửng dưng
mọi sự gác bên ngoài
Dầu được
dầu thua ai mặc ai
Mùi thế
gian nhiều mặn nhạt
Đường danh
lợi có chông gai
Vượt qua mọi thị phi, khen chê, khôn dại của
trần ai để lên đường về chốn cũ vui thú điền viên, an dưỡng thân tâm trong
thầm lặng :
Thị phi
chẳng quản mặc chê khen
Ngu dại
trần trần vẫn tịnh an
Cảnh cũ
điền viên tìm chốn cũ
Khách nhàn
sơn thủy dưỡng thân nhàn
Chốn cũ ở đây là Bạch Vân Am, nơi nhà thơ lui về
ẩn cư giữa chốn thôn trang hoang vắng, heo hút ruộng vườn hoa trổ gió trăng,
lặng lẽ thảnh thơi với sơn thủy hữu tình. Tình thơ nồng thắm hương vị thanh bần
lạc đạo, phiêu hốt hồn thơ bay vút trời cao xanh ngần phất phới.
Với tâm tánh khiêm hạ thì tất nhiên trong
cuộc sống thường nhật, thi nhân không hề có thái độ coi thường ai cả mà trái
lại, nhún nhường tôn kính hết thảy mọi người. Sống ở đời, việc xử sự với nhau là khó lắm, phải
luôn thận trọng tế nhị. Chúng ta nên biết rằng, việc thiện lành hay hung dữ đều
do tự mình gây ra. Vì thế phải tự mình trực nhận, giác ngộ lẽ đạo như kẻ xuất
gia cắt bỏ tóc râu để biểu hiện sự xa lìa thoát khỏi mọi hệ lụy của cuộc đời,
không hề bị ràng buộc mắc dính :
Khinh dễ
làm chi khó bấy là
Dữ lành
toàn bởi một mình ta
Giác thân
dầu đã hay tu phúc
Thế phát
cho nên phải xuất gia
Làm chi
lẽo đẽo hoài cho nhọc
Cầu Thích
Ca nào để Bụt nhà ?
Bụt hay Phật tức là tâm, là tánh vốn ở trong
lòng mình. Bất cứ ai ai cũng đều sẵn có cả. Vậy thì tốt nhất là biết trở về
sống với tự tánh, tự tâm chứ không cần hướng ra bên ngoài chạy tìm kiếm Phật
hay Bụt đâu nữa. Trong thơ Bạch Vân cư sĩ, ý thiền bàng bạc khắp nơi mọi chốn,
ngay ở sinh hoạt hàng ngày như mặc áo, ăn cơm, ngồi nghỉ ngơi dưới vườn cây
trái hay lang thang đây đó qua những xóm làng cô thôn hiu quạnh dạo chơi :
Cơm ăn
chẳng quản dưa muối
Áo mặc nài
chi gấm thêu
Tựa gốc
cây ngồi hóng mát
Đìu hiu ta
với một đìu hiu
Sống giữa cảnh quạnh hiu vắng vẻ tịch mịch, nhà
thơ vẫn an lạc vẫn thưởng thức được hương vị cô liêu với trăng thanh gió mát
nhẹ lồng. Sống trọn vẹn với chính mình như vậy, thi nhân mới quán chiếu sâu sắc
lẽ đời mà chạnh lòng thương xót cho nhân tình thế thái cứ mãi còn lừa dối, đổi
trắng thay đen, phũ phàng bạc đãi với bao chua cay, mặn nhạt quá đỗi ê chề :
Thế gian
biến cải vũng nên đồi
Mặn nhạt
chua cay lẫn ngọt bùi
Còn tiền
còn bạc còn đệ tử
Hết cơm
hết rượu hết ông tôi
Xưa nay
đều trọng người chân thật
Ai nấy đâu
ưa kẻ đãi bôi
Ở thế mới
hay người bạc ác
Giàu thì
tìm đến khó thì lui
Chứng kiến biết bao cảnh đời tráo trở, đãi bôi một
cách trắng trợn tàn nhẫn ấy, nhà thơ vẫn mỉm một nụ cười thanh thản, an nhiên, vô
sự
:
Chữ rằng :
Nhân dĩ hòa vi quý
Vô sự thì
hơn kẻo phải lo
Nhà thơ Mây Trắng muốn nói rằng,
người ta sống ở đời nên lấy sự tùy thuận hòa hảo, thân thiết mến yêu với nhau
làm điều cốt yếu. Vô sự là một thái độ vô vi, là làm tất cả mà tâm không chấp
vào việc làm, không dính kẹt vào việc gì hết, không kể công, là rỗng lặng chẳng
vướng mắc vào bất cứ điều chi cả :
Ta dại ta
tìm nơi vắng vẻ
Người khôn
người đến chốn lao xao
Thu ăn
măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm
hồ sen hạ tắm ao
Rượu đến
gốc cây ta sẽ nhắp
Nhìn xem
phú quý tựa chiêm bao
Thi sĩ xem giàu sang
phú quý như một giấc mộng nên rời bỏ chốn lao xao nhộn nhịp, phồn hoa đô hội,
về nơi hoang vắng, sống đạm bạc giản dị đơn sơ. Chốn lao xao là chốn quyền lực,
bè phái, mua danh bán chức, tham ô, hối lộ, tham nhũng để cuối cùng đưa đến đấu
tranh giành giật, chém giết lẫn nhau thôi. Cái chốn hỗn độn đầy mưu mô,
xảo quyệt ấy, nhà thơ đã xa lánh từ lâu rồi. Giờ đây nhàn nhã ra vào hiên mai ngõ
trúc, nhẹ vỗ tay cười ca hát nghêu ngao :
Nép mình
qua trước chốn lao xao
Mấy sự bên
tai gió thổi phào
Cửa trúc
vỗ tay cười khúc khích
Hiên mai
vắt cẳng hát nghêu ngao
Nghêu ngao vếu váo, nhàn nhã ngâm nga những bài
thơ xưa, khề khà dăm ba chén rượu cùng bằng hữu tương tri giữa đất trời thoải
mái, có gió trăng gần gũi, có tiếng cười thân mật. Vất ngoài tai mọi đối đãi,
so sánh giàu nghèo, hơn thua, phải trái… của thế sự trần ai. Buông và buông
xuống sạch sành sanh, xem mọi sự như không, cho trôi hết như nước chảy qua cầu
:
Giàu mặc
phận khó đâu bì
Đọ thanh
nhàn đáng nhất nhì
Vếu váo
câu thơ cũ rích
Khề khà
chén rượu hăng xì
Trăng
thanh gió mát là tương thức
Nước biếc
non xanh ấy cố tri
Thế sự đôi
co dầu thế sự
Rũ không
thảy thảy chẳng hề chi
Thi sĩ hát ca trên tinh thần vô úy, vắng
bặt mọi âu lo. Đó là ứng dụng tâm thiền vào cuộc sống, bằng cách không tham lam, chẳng sân hận, si mê,
nên thoát khỏi mọi phiền não khổ sầu. Khi mọi sầu khổ tan biến thì an vui liền
xuất hiện liền lập tức ngay ở đây, bây giờ :
Ngỡ thú
vui là thú ở đâu ?
Chẳng ngờ
vui ở chốn chẳng âu
Hết tham, dứt
chợ nên non vắng
Còn lụy,
trường ca biển lệ sầu
Nếu còn thích chen chân giữa phố hội phù hoa
đầy những sắc màu, thanh âm huyên náo thì tâm dễ dao động,
dễ khởi lên nhiều tà ý, tham si nên thi nhân chọn lối hoang lương, lên rừng núi
hòa cùng thông cùng trúc. Ngày ngày cùng bạn đạo nghiên cứu kinh sách thánh
hiền, đêm đêm trải lòng sáng chiếu diệu vời cùng ánh trăng lấp lánh dưới hồ
xanh :
Lánh trần
đến náu thú sơn lâm
Lá thông
đàn tiếng trúc cầm
Sách cũ
ngày tìm người hữu đạo
Ao thanh
đêm diễn nguyệt vô tâm
Vô tâm là đã đạt tới cảnh giới thượng thừa rồi,
nhưng dẫu vô tâm mà thi nhân vẫn ân cần khuyên người ta nên buông
bỏ lòng tham lam, ham muốn xuống đi, vì tham lam dẫn
đến sân hận, si mê. Đó
là nguyên nhân của mọi khổ đau, trầm thống, tang thương của kiếp người. Hãy biết sống tri túc, biết đủ là tốt đẹp rồi. Đấy là lời khuyên răn nhắn nhủ chân thành nhất, đủ thấy tấm lòng từ bi của thi sĩ thật hết sức thiết tha :
Đủ no hay
vậy xin thong thả
Sục sạo
làm chi luống nhọc nhằn
Nếu tham
hơn thì sẽ thiệt
Hãy ghi
lời ấy để mà răn
Ngoài thơ chữ Nôm, nhà thơ Mây Trắng còn có
nhiều thơ chữ Hán. Nội dung mang chở tinh thần Phật giáo Thiền
tông. Cũng
như Tuệ Trung Thượng Sỹ về ở nơi thôn dã Tịnh Bang hoang lương, cô tịch để thể nhập
lẽ huyền vi, thì Nguyễn Bỉnh Khiêm quy ẩn Bạch Vân Am để hàm dưỡng tâm hồn khiêm
cung giữa trời thơ đất mộng trầm hùng. Chúng ta hãy nghe thi nhân diễn tả phong
cảnh Bạch Vân Am :
Bạch Vân
Am bạch, bạch vân hương
Cận tiếp
giang lâu đối tịch dương
Tọa thượng
tiếu đàm xuân cánh hảo
Môn trung
ngâm vịnh bút sinh hương
Số bôi
minh nguyệt lưu hoa ảnh
Bán chẩm
thanh phong nhạ trúc lương
Sơn thủy
diệc tòng nhân trí nhạo
Giá ban ý
vị thục năng tường ?
( Bạch Vân
Am cạnh làng mây
Lầu sông
soi bóng trời tây xế chiều
Núi cười
xuân hứng phiêu diêu
Câu thơ
ngọn bút dặt dìu bay hương
Trăng lồng
hoa lộng chén hường
Gió lay
bay trúc bên giường thoảng qua
Trí nhân
non nước mặn mà
Trong vui
dường ấy lòng ta ai tường ? )
Bạch Vân Am được dựng bên dòng sông thơ mộng
bồng bềnh, thấp thoáng sương mù và mây trắng. Nắng chiều bảng lảng chập chờn
trong tịch mịch lặng yên vắng vẻ. Nghe núi cười reo vui giữa mùa xuân mà hồn
thơ cảm hứng ngân rung. Gió trúc đung đưa, trăng hoa hòa cùng chén rượu nồng
nàn hoan hỷ. Có mấy ai hiểu được niềm khinh an, tiêu sái tràn đầy thiền vị ấy
chăng ? Sống giữa cảnh thiên nhiên, sơn thủy hữu tình ấy, lòng thi nhân ghi
nhận một niềm hân hoan, thi vị diệu vời. Rồi lặng lẽ một ngày, sau thời loạn
lạc chiến chinh, nhà thơ làm một chuyến hành hương nhàn nhã, quay về chốn cũ
thăm viếng chùa xưa :
Loạn hậu
trùng tầm đáo Phổ Minh
Viên hoa
dã thảo cựu nham quynh
Bi văn bác
lạc hòa yên bích
Phật nhãn
thê lương chiếu dạ thanh
Pháp giới
ưng đồng thiên quảng đại
Hương nhân
do thuyết địa anh linh
Liêu liêu
cổ đỉnh kim hà tại ?
Thức đắc
vô hình thắng hữu hình
( Sau loạn
lại tìm đến Phổ Minh
Hoa vườn
cỏ nội lối rêu xanh
Văn bia mờ
nhạt hòa khói biếc
Mắt Phật
trầm ngâm chiếu đêm thanh
Pháp giới
bao la trời rộng lớn
Người dân
vẫn nói đất thiêng linh
Vắng không
cổ đỉnh rày đâu tá ?
Mới biết
vô hình thắng hữu hình )
Chiến tranh đã qua, nhà thơ tìm đến thăm chùa
Phổ Minh ở Nam
Định. Cảnh chùa xưa bàng bạc hoang vắng trong nắng chiều tịch liêu. Trầm ngâm
ánh mắt “từ nhãn thị chúng sinh” của
Đức Phật nhìn sâu vào đêm dài sinh tử của nhân gian trường mộng như thấy mười
phương pháp giới chập chùng. Nhà thơ tự hỏi “Cổ đỉnh
kim hà tại ?” Cái vạc nay còn đâu ? Cái vạc lớn trong chùa đã bị giặc Minh
phá hoại tan nát mất rồi. Trong một thoáng trực giác lóe sáng, tự nhiên nhà thơ
bỗng thấy “vô hình thắng hữu hình”
Cái không có hình tướng thì hơn cái có hình tướng, vì cái có hình tướng đã hư
hoại, còn cái vô tướng vẫn hiện hữu trong tâm.
Nhà thơ Mây Trắng một chiều vãng cảnh
chùa xưa tĩnh mịch, suy nghĩ về giáo lý Hoa Nghiêm trùng trùng duyên khởi, rồi
lại liên tưởng đến cái vạc bằng đồng, một vật hữu hình nay không còn nữa mà
hoát nhiên trực ngộ ra lẽ thực tướng vô tướng, bất sinh bất diệt của nhà thiền.
Lãnh hội được pháp giới duyên khởi trùng trùng vi diệu đó, lòng thi nhân mở
rộng bát ngát, thương yêu tất cả thập loại chúng sinh :
Đại tiểu
nghi tương an
Cơ thẩm
mặc tương xúc
Đế đức bản
hiếu sinh
Thân vật
manh sát lục
( Loài lớn
nhỏ để cho yên
Chớ nên
xúc phạm gây phiền não nhau
Đức hiếu
sinh lấy làm đầu
Tuyệt
không giết hại làm đau khổ nhiều )
Hiếu sinh là tuyệt nhiên không nên tàn sát, bắn
giết bất cứ sinh vật nào. Đây là giới cấm thứ nhất trong ngũ giới của Phật
giáo. Sát sinh ở đây chỉ cho hành động giết người, là một hành động độc ác, mất
nhân tính, không thể chấp nhận được trong cuộc sinh tồn. Lòng thương yêu của
nhà thơ không những đối với con người mà còn đối với các loài vật nữa. Thật cảm
động xiết bao ! Rào rạt từ đầu đến cuối, hồn thơ chan chứa bao dung, vẫn không
rời chữ tâm, chữ lòng như thầm nhắn nhủ chúng ta hãy giữ lòng, giữ tâm cho sáng
suốt thanh tịnh, nghĩa là phải tỉnh thức không thì nguy hiểm vô cùng :
Ngụy mạc
ngụy nhân tâm
Nhất phóng
tiện quỉ quắc
Quân tử
cầu sở chỉ
Chí thiện
tư vi cực
( Nguy
hiểm nhất cái tâm tà
Phóng tâm
thâm độc là ma quỷ liền
Bậc quân
tử giữ lòng yên
Kiên trì
chí thiện ấy miền thiên lương )
Đó là cái thấy của bậc tỉnh thức, của một người
đã đi sâu vào lòng đời với biết bao kinh nghiệm lịch lãm, đã chứng kiến biết
bao cảnh nhân tình thế thái đổi thay mới nói được như vậy. Nhà thơ đã thấu thị
nhân sinh, thấu suốt muôn sự việc ở đời đều do tâm mình, lòng mình mà ra cả.
Cho nên, bậc chí nhân quân tử là người phải biết dừng cái tâm hỗn loạn, cái tâm
độc ác, phá hoại, cái tâm điên đảo, vọng tưởng lại, biết hướng tâm về chỗ chí
chân, chí thiện và chí mỹ để lợi lạc cho toàn thể xã hội loài người trong cõi
tồn sinh.
Là một nhà thơ vĩ đại của dân tộc, Nguyễn Bỉnh
Khiêm như cây cổ thụ tỏa rợp bóng mát từ thế kỷ XVI đến bây giờ, đã để lại cho
chúng ta gia tài thi ca vô cùng giá trị. Một tác phẩm nghệ thuật chỉ tuyệt vời,
có hồn là khi nào nó xuất phát từ một sự đòi hỏi nhu cầu của tâm tư, của ý chí.
Cái tâm, cái chí là nền tảng mà nhà thơ Mây Trắng cất lên tiếng nói đích thực
nhất của chính mình, cái chí, cái tâm ấy là sự thanh thản, nhàn du theo thể điệu tiêu
dao vô sự.
Thi sĩ đi về khơi mạch suối nguồn yêu thương,
hướng về thế giới nội tâm thâm diệu. Hãy đi vào bên trong sâu thẳm tâm linh, dò
dẫm tận đáy lòng phong kín mà từ đó, đời sống đã trào tuôn dạt dào bao mới mẻ
mới lạ, không ngừng luân lưu trôi chảy…
Mây trắng nghìn năm vẫn phiêu du, thong thả cũng
như nhà thơ Mây Trắng Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn bồng tênh mỉm cười lặng lẽ, nhẹ gởi
xuống cuộc đời những dòng thơ nồng nàn hơi thở, bát ngát tình thâm và đậm đà thấm
thía hương vị thi ca.
Tâm Nhiên
Thơ Nguyễn
Bỉnh Khiêm ( chữ nghiêng ), trích trong tác phẩm :
Thơ Văn Nguyễn Bỉnh Khiêm. Văn Học xuất bản, Hà Nội 1997
* Lâm Tế
Ngữ Lục. Người Vô Sự. Nhất Hạnh bình giảng. Lá Bối 2008