Kể từ buổi khai thiên lập địa tới bây giờ, trên mặt
đất hoang vu, mịt mù sương khói còn thấp thoáng những bóng người đi giữa thiên
thu vời vợi. Lớp lớp người đến rồi đi trong lặng lẽ chập chùng qua bao thời đại
âm thầm. Tuy âm thầm lặng lẽ nhưng vẫn còn đồng vọng khôn nguôi, tận đáy lòng
sâu thẳm của mỗi một người trong chúng ta và thắp lên ngọn lửa hào hùng, bừng
sáng rực ngời hồn thiêng sông núi miên trường.
Ngược dòng sử lịch Việt Nam , vào đầu thế kỷ XIV nước ta còn
gọi là Đại Việt, xuất hiện một con người như vậy. Đó là Nguyễn Trãi ( 1380 - 1442
) biệt hiệu Ức Trai, một bậc kỳ tài về đủ mọi mặt, văn võ song toàn đã đem hết năng
lực, trí tuệ trác việt hiến dâng cho dân tộc. Thiên tài Nguyễn Trãi thể hiện
qua mọi lãnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao, tư tưởng, văn hóa và đặc biệt
là những kiệt tác thi ca, làm rung động lòng người, khơi dậy ý thiền siêu thoát
để vượt qua đôi bờ có không, sống chết…
Trên những bước đường lịch sử mênh mang, sau những rập
rình biết bao hiểm họa tồn sinh bức bách, cuộc lữ của thi nhân dẫn về thế giới
nội tâm trầm hậu, đối mặt với niềm cô đơn bi tráng của chính mình. Một con
người đã từng đau lòng đứt ruột vì cha bị giặc Tàu bắt đem đi, từng nằm gai nếm
mật trong rừng sâu suốt mười năm trời kiên trì nhẫn nhục, từng tung hoành ngang
dọc khắp chiến trường máu lửa để chống giặc ngoại xâm, từng bàn luận việc quốc
gia đại sự với hoàng đế Lê Lợi, từng viết Bình Ngô đại cáo, bản tuyên ngôn độc
lập đầu tiên của dân tộc Việt, từng vào sinh ra tử như Nguyễn Trãi, khi treo ấn
từ quan không phải vì chán đời mà để cho chí khí, tâm huyết của mình hoà quyện
vào tạo vật thiên nhiên.
Đó là thái độ của bậc đại trượng phu đã chiêm nghiệm
toàn cảnh cuộc đời danh lợi, vinh hoa phú quý đều chỉ là huyễn ảo, vô thường,
nên quay về im lặng mỉm cười trong phong thái vô ngại, buông xả thung dung.
Hùng tâm tráng khí mà vẫn nhẹ mỉm cười, lui về quy ẩn nơi chốn miền hoang dã
Côn Sơn, thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay, chấp nhận sống an bần lạc đạo, gác
ngoài tai những chuyện thị phi, tị hiềm, những đố kỵ, đa đoan của nhân tình thế
thái quá chừng rắc rối rườm rà :
Am trúc hiên
mai ngày tháng qua
Thị phi nào
đến cõi yên hà
Cơm ăn dầu có
dưa muối
Áo mặc nài
chi gấm là
Nước dưỡng
cho thanh trì thưởng nguyệt
Đất cày ngõ
ải lảnh nương hoa
Trong khi
hứng động vừa đêm tuyết
Ngâm được câu
thần dặng dặng ca
Thật là thi vị làm sao ! Nhà thơ của chúng ta thường
chú tâm chăm sóc gìn giữ hồ ao cho nước mãi xanh trong trẻo để những đêm rằm, ngắm
trăng lên soi bóng dưới dòng nước biếc, rồi có khi dạo gót quanh hàng rào, xao
động cỏ hoa mà xuất thần cảm hứng ngâm nga giữa trời thơ đất mộng. Tiêu dao đến
thế là thể hiện một tâm hồn thượng đạt thong dong. Lòng thi nhân thanh bạch đã
giũ sạch bụi phù trần, lâng lâng một niềm thanh thản giữa rừng chiều hoang liêu
tịch mịch. Thỉnh thoảng đến chốn tùng lâm thưởng ngoạn xem hoa, uống trà đàm
đạo. Chủ và khách, tăng và tục cùng vô tâm đối ẩm nguồn thi cảm với thông với
trúc, với rừng cao núi thẳm ngát hương trầm :
Giữa bao
nhiêu bụi bụi lầm
Xăn tay áo
đến tùng lâm
Rừng nhiều
cây hợp hoa chầy động
Đường ít
người đi cỏ kíp xâm
Thơ đới tục
hiềm câu đới tục
Chủ vô tâm ấy
khách vô tâm
Trúc thông
hiên vắng trong khi ấy
Năng mấy sơn
tăng làm bạn ngâm
Từ hữu tâm đến vô tâm là cả một quá trình hành thiền
miên mật, ở đây thiền sư và thi sĩ đều vô tâm thì quả nhiên là quá tuyệt vời. Thường
kết bạn, giao du với những thiền sư như Đạo Khiêm, Đạo Tấn nên lòng thi nhân cũng
không khác chi một vị thầy trên núi cao. Chốn miền Côn Sơn, nơi nhà thơ đang
lưu trú cũng tùng xanh trúc biếc, chẳng khác chi cảnh am cốc, chùa chiền, thiền
viện. Tuy không xuất gia nhưng thân tâm chẳng hề bị lợi danh buộc ràng, lòng
trong sáng như trăng thanh hằng đêm cùng nhà thơ đối ẩm, thấm nhuần tỏa ngát hương
hoa quanh vườn mà thường ngày ra tay chăm bón. Hồn đất đai cây cỏ ngân nga
hoà tấu khúc reo vui, dưới hồ ao sen lao xao gió lá, trên cành chim bướm ca hót
rộn rã líu lo. Thật là nên thơ thú vị, một vẻ đẹp thiên nhiên thuần túy giữa
ngày tháng nhàn nhã an lành :
Cảnh tựa chùa chiền lòng tựa thầy
Cứ thân chớ phải lợi danh vây
Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén
Ngày nắng xem hoa bợ cây
Cây rợp chồi cành chim kết tổ
Ao quan mấu ấu cá nên bầy
Ít nhiều tiêu sái lòng ngoài thế
Biết một ông này đẹp thú này
Đấy là tự tri theo
thể điệu tiêu sái, tiêu dao du Trang Tử. Tự biết mình là tỉnh thức trong từng
giây phút, là pháp thiền Hiện Pháp Lạc Trú
mà nhà thơ Ức Trai đang thực tập, đang quán chiếu tự thân và đã nếm được hương
vị thanh tịnh bình yên, lạc phúc trên từng nhịp bước nhẹ nhàng, thư thả ung dung.
Đúng là nhà thơ đã an lập, an định vững vàng cái tâm của mình trong bất cứ
trường hợp nào, dù giữa chốn triều đình phức tạp, nhiều phe phái ganh ghét, tranh
giành quyền lực, chức tước, địa vị, thi nhân vẫn xem chốn đó như một quán khách
bên đường, đến rồi đi, không bị vướng mắc hệ lụy gì hết nên vẫn an nhiên an lạc
như Bụt. Với Nguyễn Trãi, tâm là Bụt, Bụt ở ngay chính nơi lòng của mình đây
thôi, chớ vọng cầu chạy tìm kiếm nơi nào xa lơ xa lắc tận đâu đâu :
Chân chẳng lọt đến cửa công hầu
Ấy tuổi nào thay đã bạc đầu
Liệu cửa nhà xem bằng quán khách
Đem công danh đổi lấy cần câu
Thân đà hết lụy thân nên nhẹ
Bụt ấy là lòng Bụt há cầu ?
Tâm là Bụt, Bụt là
tâm. Đức Thế Tôn và chư vị Tổ sư đều công nhận như thế và nhà thơ Ức Trai cũng
thấy như vậy. Đó là cái thấy tuệ giác, cái thấy tâm thiền nên mọi sự ở đời đều
hòa âm đầm ấm, linh động, không còn phân biệt cao thấp, tốt xấu, dở hay, sướng
khổ... gì gì nữa, cứ tùy duyên, tùy thuận ra vào :
Có thân thì biết khá làm sao
Lửng vửng công hư tuổi tác nào
Người ảo hoá khoe thân ảo hoá
Thuở chiêm bao thốt sự chiêm bao
Rừng thiền ắt thấy nên đầm ấm
Đường thế nào nơi chẳng thấp cao
Hào khí dị thường,
nhà thơ mở đường lên rừng thiêng đỉnh núi, dựng túp lều tranh, ngồi thiền giữa thâm sơn cùng cốc, chỉ
có cọp beo gầm rú, vượn khỉ lượn vờn quanh. Lấy núi non, chim chóc làm bạn láng
giềng, lấy mây sớm trăng khuya làm chỗ
trao gởi nỗi niềm tâm sự anh em. Còn gì thanh cao tao nhã cho bằng, còn
chi ý nghĩa hơn nữa, phải không ? Bồng tênh giữa cảnh thanh u cô tịch đó, thi
nhân làm cuộc hành trình tâm linh đến tận nơi phát xuất dòng suối Tào Khê, nơi
mà Lục tổ Huệ Năng đã chỉ rõ cái tự tánh thanh tịnh, cái bản lai diện mục, tức
cái mặt mũi xưa nay của con người muôn thuở muôn nơi. Suối Tào Khê mầu nhiệm ấy
đã chảy rạt rào về giữa lòng thi nhân và đã tẩy sạch hết mọi phiền não của phàm
phu tục tử phù trần :
Chụm tự nhiên một thảo am
Dầu lòng đi Bắc lẫn về Nam
Rừng thiền định hùm nằm chực
Trái thì trai vượn nhọc đem
Núi láng giềng chim bầu bạn
Mây khách khứa nguyệt anh tam
Tào Khê rửa ngàn tầm suối
Sạch chẳng còn một chút phàm
Bụi phàm tục rơi
sạch sành sanh, hiển lộ ra cả bầu trời thơ lồng lộng, bồng tênh thi sĩ đi về qua
khắp dặm dài nhân thế, từ chốn cung đình, vua chúa đến miền thôn dã mộc mạc
bình dân vẫn phong độ thong dong vô sự, thư thả hòa hài theo cách điệu khoan
thai :
Lều nhàn vô sự ấy lâu dài
Đi ở chẳng từng khuấy nhiễu ai
Tuyết đượm trà sương thơ dễ động
Hồ in bóng nguyệt hứng thêm dài
Tinh thần tiêu dao
vô sự, viên dung vô ngại tất cả, cứ như thị, như nhiên mà sống với bình thường
tâm ấy, chứ đừng mong cầu, chạy tìm kiếm tận đâu đâu những phương trời vọng
tưởng xa xăm là cũng đạt rồi, như thi nhân đã từng thấy một cách diệu thường :
Lọ chi tiên Bụt lọ tầm phương
Được thú an nhàn ngày tháng trường
Song có hoa mai trì có nguyệt
Án còn phiến sách triện còn hương
Ngày tháng an cư,
tự do nhàn nhã ra vào với từng hơi thở nhẹ nhàng như nước chảy mây bay. Ngay
đây là Tịnh độ, Niết bàn, là Hoan hỷ địa thênh thang rồi. Kìa, ngoài song cửa
hoa mai hoa đào rộ nở, dưới ao rằm lấp lánh ánh trăng soi. Còn đòi hỏi gì thêm
nữa, hỡi những tâm hồn bé nhỏ, ngu ngơ, ngớ ngẩn, cứ mãi lận đận trong đêm dài
sinh tử tham si. Hãy lấy kinh sách thánh hiền ra mà soi lại lòng mình đi, cảo
thơm cổ lục còn nguyên vẹn nằm chờ mi xem đó. Có phải nhà thơ của chúng ta muốn
nhắn nhủ như thế chăng ? Có lẽ tự nhắc nhở chính mình thôi, vì tâm đắc với Tổ
sư thiền tối thượng thừa của Bồ Đề Đạt Ma trên đỉnh ngàn Thiếu Thất tuyệt mù
bên dòng sông Liêm Khê xanh biếc :
Thiêu hương
đọc sách quét con am
Chẳng Bụt
chẳng tiên ắt chẳng phàm
Ánh cửa trăng
mai thấp thấp
Cài song gió
trúc nàm nàm
Đầu non Thiếu
Thất đen bằng mực
Dòng nước Lam
Khê lục nửa lam
Tiêu sái mấy
lòng đà mạc được
Bảo chăng
khứng mạc một lòng thơm
Thường tình, người theo đạo Phật thì tán thán Bụt, kẻ
theo đạo Lão thì ca ngợi tiên, còn Nguyễn Trãi từ ngày có duyên biết được ba
thân : Pháp thân, Báo thân và Hoá thân của Phật thì đã thấy được đường đi chốn
đến nên vui vẻ nhẹ hều. Hiểu được người sống lâu như Bành Tổ hay kẻ chết yểu,
cũng như người đắc thắng hay thất bại trong tuồng đời hư huyễn đều do nhân
duyên, nghiệp báo theo lý nhân quả mà thôi. Biết được lẽ tự nhiên cá thì lội,
chim thì bay, thường xuyên tiếp xúc, quan hệ thì thiếu gì bạn bè, siêng năng
tinh tấn, chuyên chú đọc sách thì nhanh chóng hiểu đạo thánh hiền. Tất cả đều
do mình sáng tạo kiến lập ra, vậy nên linh động, sống ở đâu thì sẵn sàng hoan
hỷ vui vẻ ở đấy theo thể lệ tùy duyên :
Kẻ thì nên
Bụt kẻ nên tiên
Tưởng thấy ba
thân đã có duyên
Bành được
thương thua con tạo hoá
Chim bay cá
lội đạo tự nhiên
Có thân mựa
lệ phạp bằng hữu
Đọc sách thì
xem thấy thánh hiền
Ta nếu ở đâu
vui thú đấy
Người xưa ẩn
cả nọ lâm tuyền
“Ta nếu ở đâu
vui thú đấy” là sống an nhiên với
từng giây phút đang là. Chủ đích rốt ráo của đạo Thiền là mỗi người chúng ta
hãy tự thực hiện điều cốt yếu này ngay trong cuộc sống hàng ngày của chính mình,
ngay ở đây và bây giờ đó thôi. Thi sĩ Ức Trai, phải chăng đã thưởng thức được
hương vị thực tại hiện tiền ấy nên chẳng cầu mong danh thơm tiếng tốt, lợi lộc
gì thêm nữa, chẳng còn mừng rỡ hay âu sầu, lo sợ trước những được mất, hơn
thua, phải trái của trò đối đãi thế gian. Buông xuống danh lợi, bỏ chuyện thị
phi, vì đeo mang chi cho mệt nhọc, khi mà về đây giữa chốn lâm tuyền, sớm chiều
có sông nước núi rừng xanh biếc ngoài song cửa, có túi thơ bầu rượu phóng
khoáng nghêu ngao hát khúc thiên địa vô ngôn. Bài ca không lời hòa giai điệu
hân hoan nhàn dật, cần chi đàn sáo xôn xao, vì bạn tri âm hiếm hoi vắng mặt lâu
ngày không thấy đến, nên cứ lặng lẽ vào ra nhàn hạ, thung dung cùng hương vị cô
liêu một mình độc ẩm. Lòng thi nhân mở rộng niềm thương đến muôn loài vạn vật,
đến tôm cá trong ao cũng ngại thả bắt giăng câu :
Danh chẳng
muốn lộc chẳng cầu
Được ắt chẳng
mừng mất chẳng âu
Có nước nhiễu
song non nhiễu cửa
Còn thơ đầy
túi rượu đầy bầu
Người tri âm
ít cầm nên lặng
Lòng hiếu
sinh nhiều cá ngại câu
“Lòng hiếu
sinh nhiều” là biểu hiện đại bi tâm,
thương yêu vô điều kiện. Một tấm lòng bao dung cùng tận ẩn trong lòng một nhà
thơ ở vùng núi rừng Côn Sơn cách đây gần 600 năm, có làm cho chúng ta xúc động
mà bỏ đi những cố chấp, tham si, tỵ hiềm, ganh ghét để cùng yêu thương nhau
giữa người với người trong cuộc sống hay chăng ? Tiếng thơ hào sảng, hạo nhiên
chi khí ngút trời, khơi dậy phong thái rất mực phiêu nhiên và truyền cảm một
niềm vui thanh tao cao khiết. Niềm vui ấy như muốn trào dâng lên đến những
phương trời lồng lộng, mênh mông bát ngát :
Láng giềng :
Trùng trùng mây bạc
Khách khứa :
Hai ngàn núi xanh
Có thuở biếng
thăm bạn cũ
Lòng thơ
nghìn dặm nguyệt ba canh
Lòng thơ mở ra cánh cửa bao la, hòa điệu cùng toàn thể
vô tận đất trời. Lấy mây trắng nắng vàng làm bầu bạn láng giềng tâm sự, xem
trùng trùng non núi rừng xanh là khách lữ trong cuộc giao tình tương đắc tương
tri, còn chi lý thú cho bằng. Với lòng thơ sâu sắc, nhạy cảm quá đặc biệt, thi
nhân biết lắng nghe đến tận đáy hồn vạn vật, biết cảm nhận sâu xa, dù chỉ là
một đoá hoa dại vô danh bên hồ nước lung linh, giống như Quách Thoại, khi thấy
một bông thược dược đứng lẻ loi bên hàng rào thưa vắng, bỗng phát hiện một điều
gì vi diệu nên sửng sốt giật mình, vội quỳ xuống cúi lạy thẳm sâu :
Lặng yên bên
hàng giậu
Em mỉm nụ
nhiệm mầu
Sực nhìn em
kinh ngạc
Vừa thoáng
nghe em hát
Lời ca em
thiên thâu
Ta sụp lạy
cúi đầu
Còn Nguyễn Trãi khi nhìn một bụi cây bông bụt lồng
bóng nước dưới bờ ao thì bất thần rúng động, khám phá ra được lẽ sắc không :
Ánh nước hoa
in một đoá hồng
Vết nhơ chẳng
bén Bụt nơi lòng
Sớm mai nở
chiều hôm rụng
Sự lạ cho hay
tuyệt sắc không
Phải chăng, lúc đó thi nhân đang đi dạo chơi trên một
con đường quê yên ả, chợt thấy cây bông bụt in bóng dưới hồ nước ven đường, chợt
dừng chân lại ngắm xem. Không ngờ trong một sát na giữa bình sinh hy hữu, nhà
thơ bỗng trực ngộ ra lý “sắc tức thị không,
không tức thị sắc” của Bát Nhã Tâm Kinh. Đó là lý Bất nhị, bình đẳng không
hai, bình đẳng đến chỗ Nhất Như, không còn một chút phân biệt nào giữa sinh tử
và Niết bàn, chợ búa và đạo trường, lầu xanh và thiền viện, phiền não và Bồ đề,
ngu si và trí tuệ, vô minh và Phật tánh. Thành thử, khi trực thấy “vết nhơ chẳng bén Bụt nơi lòng” và “sự lạ cho hay tuyệt sắc không” là thi
nhân đã thấu triệt được chân tướng của sắc không rồi vậy.
Thấy cái thân ngũ uẩn ảo hoá cũng tức là cái chơn thật
của Pháp thân. Pháp thân và sắc thân đều diệu dụng, ứng hoá từ một nguồn tự tánh
thanh tịnh vốn “xưa nay không hề có một
vật” nào cả. Thật là tuyệt diệu ! Thấu hiểu được vậy là nhà thơ Ức Trai đã thấy được thực tại vô ngã của nhân sinh,
thực tướng vô tướng của vạn hữu, nên mỉm cười niêm hoa vi tiếu, một nụ cười vô sự giữa dòng đời luân lưu cuộn trào vô
quái ngại.
Ngoài Quốc Âm Thi
Tập ( thơ chữ Nôm ) Nguyễn Trãi còn có Ức
Trai Thi Tập ( thơ chữ Hán ) là tiếng thơ chan chứa, hòa nhập cùng vũ trụ
thiên nhiên, tràn đầy hương vị giải thoát, rực ngời tư tưởng thương yêu. Nguồn
thơ tha thiết tiếng lòng chạnh xót xa cho bao kiếp nhân sinh bèo bọt, nói lên
niềm xúc động trong dạt dào cảm thông, đồng thời thể hiện tinh thần Phật thiền
tự do tự tại, trải lòng ra với trời đất, vạn vật muôn loài bao la hoằng viễn.
Cung bậc thi ca bắt đầu ngân nga trên phím đàn cuộc lữ
ngao du qua những bến bờ hoang vắng, dọc ven sông gờn gợn sóng nước lung linh.
Nhà thơ neo thuyền lãng tử lại, buộc vào gốc cây trong bóng nhạt chiều tà. Thả
bước bồng tênh lên thăm viếng cảnh chùa trên sườn núi tịch mịch hoang sơ, mờ ảo
chập chờn sương mù và mây trắng lặng lẽ bay về bao phủ quanh thiền đường rêu
phong mát lạnh. Long lanh dòng suối thanh lương, thoang thoảng ngát hương từ
những cánh hoa rừng rơi rụng xuống. Truông rừng sâu thẳm vọng lại tiếng vượn hú
trong thấp thoáng hoàng hôn. Bóng lá trúc đung đưa vươn dài quyện lẫn với bóng
núi cô quạnh thanh trầm. Trong cảnh đó, quả có hàm chứa bao tình ý mà thi sĩ
muốn nói một điều gì nhưng rồi bỗng quên lời. Đó là tâm trạng thoát tục, phiêu
diêu của thi
sĩ, khi đi du ngoạn viếng cảnh chùa Tiên
Du trên núi biếc xanh ngàn :
Đoản trạo hệ
tà dương
Thông thống
yết thượng phương
Vân quy thiền
sáp lãnh
Hoa lạc giản
lưu hương
Nhật mộ viên
thanh cấp
Sơn không
trúc ảnh trường
Cá trung chân
hữu ý
Dục ngữ hốt
hoàn vương
( Thuyền neo
bến chiều xế
Vội lên viếng
Phật ngời
Mây về giường
sư lạnh
Hoa rụng suối
hương trôi
Hoàng hôn
vượn kêu rộn
Bóng trúc dài
núi phơi
Cảnh này thật
hữu ý
Muốn nói bỗng
quên lời )
Chừng như một mình trong núi xanh ngần vắng vẻ, nhìn
bóng trúc ngã dài theo bóng núi rừng chiều, nhà thơ như chợt nhận ra một điều
chi vi diệu mà hoát nhiên sực hiểu ý đạo, theo phép trực chỉ của thiền đốn ngộ
vô ngôn ? “Cảnh này thật hữu ý. Muốn nói bỗng quên lời.” Trời đất núi
sông vốn tịch nhiên, không có lời. Lời nói ngôn ngữ chỉ là phương tiện truyền
đạt những cái hữu hạn mà thôi, còn cái vô hạn tuyệt đối, cái Chân Như diệu lý
thì bất khả thuyết, bất khả tư nghì, chỉ cảm nhận bằng một tâm trực giác nhạy
bén sâu sắc.
Cái đó không thể dùng ngôn ngữ, lời nói diễn tả ra được.
Chỉ diễn tả những sự việc bình thường trong phạm vi tri thức mà ai cũng có thể
hiểu cuộc đời giống như một giấc mộng kê vàng. Tương truyền, đời Đường có chàng
Lư Sinh lên kinh đô dự thi. Trên đường đi ghé quán trọ nghỉ trưa, chủ quán đang
nấu nồi kê bên bếp lửa. Lư Sinh mệt quá ngủ thiếp đi một giấc, chợt mộng thấy
mình thi đỗ trạng nguyên, được nhà vua gả công chúa cho, nắm quyền một châu
quận lớn, sinh con đẻ cái và kẻ hầu người hạ đầy nhà, thật là tốt lành hạnh
phúc. Rồi bỗng một trận lũ lụt kinh khủng xảy ra, cuốn trôi hết sạch nhà cửa,
vợ con, Lư Sinh hốt hoảng la hét, bừng thức dậy, thấy nồi kê bên cạnh vẫn chưa
chín. Ông bàng hoàng mới hay rằng mình vừa nằm mơ, thấy chiêm bao mộng huyễn hư
phù :
Thế thượng
hoàng lương nhất mộng dư
Giác lai vạn
sự tổng thành hư
Như kim chỉ
ái sơn trung trú
Kết ốc hoa
biên độc cựu thư
( Kê vàng một
giấc mộng lồng
Nghìn muôn sự
việc thành không cả mà
Ưa vào hốc
núi cùng hoa
Dựng lều đọc
sách thưởng trà ngâm thơ )
Khi ý thức cuộc đời như huyễn mộng phù du thì không
còn chấp thật vào bất cứ điều chi nữa, thi nhân chỉ thích vào một hốc đá ven
triền núi cô tịch nào đó, nằm ngâm thơ, đọc sách bên mấy vồng hoa cỏ dại, quanh
đồi mây trắng lặng im lìm. Nếm được hương vị cô liêu là niềm vui của bậc dật sĩ
thanh cao. Rồi có những ngày ngoạn du phiêu lãng, thực hiện chuyến hành hương sơn hà cẩm tú, viếng thăm các bậc ẩn sĩ, hiền nhân, thiền sư, đạo sĩ trong tận chốn
miền thâm sơn cùng cốc, nhà thơ Ức Trai thường giao du
với họ nên thỉnh thoảng, họ cũng ghé lại Côn Sơn hoang vắng tịch liêu để cùng nhau đàm đạo, rồi chia tay như bài Tống
Tăng Đạo Khiêm Quy Sơn đã chứng tỏ tình
tri kỷ bạn hiền :
Ký tằng giảng
học thập dư niên
Kim hựu tương
phùng nhất dạ miên
Thả hỷ mộng
trung phao tục sự
Tiện tầm
thạch thượng thoại tiền duyên
Minh triêu
Linh Phố hoàn phi tích
Hà nhật Côn
Sơn cộng thính tuyền ?
Lão khứ cuồng
ngôn hưu quái ngã
Lâm kỳ ngã
diệt thượng thừa thiền
( Đã mười năm
trước cùng dạy học
Đêm nay gặp
lại thỏa hàn huyên
Đời hân hoan
quá chừng như mộng
Ngồi trên
tảng đá nhắc tiền duyên
Sớm mai Linh
Phố về bên ấy
Nghe suối Côn
Sơn biết thuở nào ?
Chớ lạ già
rồi hay nói lẩn
Thượng thừa
thiền kia sẽ dồi trao )
Thượng thừa thiền là một pháp môn cao nhất mà thiền sư
Đạo Khiêm đang hành trì. Bài thơ tiễn thiền sư Đạo Khiêm về núi, kể lại cuộc gặp gỡ giữa hai người
trong một đêm trùng phùng cùng nhau tâm sự. Kể
chuyện xưa cách đây hơn mười năm, tâm đầu ý hợp đến kỳ lạ. Nhắc chuyện cùng
nhau dạy học thời còn trẻ đến bàn việc trút bỏ sự đời, đi sâu vào mọi lẽ nhân
duyên mà tâm đắc hào hứng. Rồi hẹn một ngày đẹp trời nào đó, về lại núi rừng
Côn Sơn đây cùng nghe suối hát chim ca hòa điệu thanh trầm. Lâu ngày mới gặp
lại bạn tri âm, nhà thơ hân hoan quá nói đủ thứ chuyện huyên thuyên như lẩn như
cuồng, mong bạn hiểu cho. Thôi trước khi từ biệt, nhà thơ phát nguyện, hứa sẽ
thực tập theo đạo thiền thượng thừa cho rốt ráo.
Rồi tiếp tục, đường thơ băng qua
trăng đèo, qua gió bãi sông xa ngút vời theo mây ngàn vần vũ bay lên trên tuyệt đỉnh núi rừng non thiêng Yên Tử. Nơi vẫn còn dấu chân Trần Nhân Tông ( 1258 - 1308 ) vị Tổ sư khai sáng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử tự thuở nào. Khi thi
nhân leo lên đến tận đỉnh cao hùng vĩ thì choáng ngợp trước
phong cảnh thiên nhiên đẹp dị thường nên xuất
thần ngâm nga :
Yên Sơn sơn
thượng tối cao phong
Tài ngũ canh sơ
nhật chính hồng
Vũ trụ nhãn
cùng thương hải ngoại
Tiếu đàm nhân
tại bích vân trung
Ủng muôn ngọc
sóc sâm thiên mẫu
Quải thạch
châu lưu lạc bán không
Nhân miếu
đương niên di tích tại
Bạch hào
quang lý đổ trừng đồng
( Non Yên
trên đỉnh núi trông
Đầu canh năm
thấy vầng hồng bừng ra
Vô cùng trời
biển bao la
Núi mây cười
ngát quanh ta chờn vờn
Chập chùng
trúc biếc xanh rờn
Nhũ hương cao
thấp bên cồn đá rêu
Nhân Tông dấu
cũ tiên triều
Trừng đôi mắt
sáng tỏa nhiều hào quang )
Núi rừng Yên Tử thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay. Trên
đó có chùa Hoa Yên cao chất ngất, mới tinh sương đã thấy ánh bình minh rực
chiếu, nhà thơ thức dậy sớm, phóng tầm mắt thưởng ngoạn bát ngát trời mây, thấy
cả biển trời thiên thanh vĩnh thúy, nghe đâu đó tiếng người cười nói hòa lẫn
trong mây trắng sương mù loang tỏa chung quanh. Rừng tùng trúc trùng điệp bên khe
suối đá và rêu biếc xanh rì. Di tích của vua Trần Nhân Tông vẫn còn ngời sáng
với thời gian, trơ gan cùng tuế nguyệt muôn đời mãi mãi.
Bài thơ diễn tả cảnh trí chập chùng, hùng tráng của núi rừng thiêng Yên Tử mà cũng là sự lẫm liệt kiên
cường của dòng thiền đặc biệt Việt Nam, do Sơ Tổ Trúc Lâm sáng lập từ năm 1304 đến nay cũng
gần 7 thế kỷ trôi qua rồi. Ơi chao ! Hơn 700 năm dài đằng đẵng mà tưởng
chừng mới hôm nào, như thi hào Nguyễn Du bàng hoàng bỡ ngỡ :
Tưởng bao giờ
là bao giờ
Rõ ràng trước
mắt còn ngờ chiêm bao
Rào rạt gió ngàn phương từ vô lượng kiếp thổi về vi vu
vi vút cuối nẻo phong trần cuộc lữ, nghe lạnh rờn niềm cô đơn cực kỳ bi tráng
của thi nhân. Niêm cô đơn ấy đã chuyển hóa qua ý thiền siêu thoát
phiêu nhiên bàng bạc trải rộng bồng tênh từ núi đồi Côn Sơn, nơi quy ẩn của thi nhân đến tận chốn non cao rừng thiên
nhiên hùng vĩ kỳ tuyệt Yên Tử, miền chốn Như Như với nụ cười
linh hiển thiên thu.
Từ đó, thi sĩ đi về thể hiện sức sống mãnh liệt của
một hồn thơ đã uống ngụm nước tận đầu nguồn suối thiền uyên nguyên, nên không
ngừng mang trọn tài hoa phong độ hào hùng của bậc đại thi hào dân tộc. Lồng
lộng hồn thơ Ức Trai Nguyễn Trãi tiêu sái, tiêu dao, ý thơ đạo vị thâm trầm
thấm thía, lời thơ lãng đãng như mây ngàn trong nắng sớm giữa trời thơ bát ngát
mênh mông. Dù vụ án Lệ Chi Viên oan nghiệt đã kết thúc xác thân nhưng thần
thức, linh thức siêu việt của thi nhân vẫn còn đó, vẫn mỉm nụ cười vô sự, song
hành cùng chúng ta trên vạn nẻo đường đời cát bụi phiêu du.
Tâm Nhiên
Thơ Nguyễn
Trãi ( chữ nghiêng ) trích trong tác phẩm :
Nguyễn Trãi Thơ
Và Đời. Văn Học xuất bản, Hà Nội 1997