Tâm Nhiên

Tâm Nhiên

NGUYỄN LƯƠNG VỴ THI NHÂN BẤT TUYỆT HÒA ÂM





Tâm Nhiên, Nguyễn Lương Vỵ ( Sài Gòn 2014 )





Trời đất mênh mang sương khói, một thời thơ trẻ dại, bàng bạc nắng quái u buồn nơi quê nhà giữa hai đầu biển núi lung linh. Sinh năm 1952 ở Quán Rường, Tam Kỳ, thuộc tỉnh Quảng Nam, một chốn miền “Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm. Rượu hồng đào chưa nhấm đà say” ấy, Nguyễn Lương Vỵ lớn lên trong một gia đình có truyền thống Nho học. Từ thuở nhỏ vốn bẩm sinh có năng khiếu làm thơ, đặc biệt được ông nội ( nguyên là một nhà Nho, có thời kỳ làm chánh tổng ) trực tiếp truyền dạy các loại thơ tứ tuyệt, Đường luật, nên biết mần thơ ngay từ lúc 12, 13 tuổi, thuở còn chạy rông chơi bên mấy cổ tháp rêu phong Chiên Đàn, cạnh dòng sông Tam Kỳ và bãi biển Tam Thanh xanh biếc mộng.

Không biết đất trời có muốn đẩy xô chàng vào cái nghiệp thi sĩ bị đày đọa hay chăng mà bắt chàng phải mồ côi cha hồi mới 13 tuổi, sớm chịu cảnh bơ vơ ? Sờ sững, kinh hoàng, nhưng chàng không gục ngã mà đứng bật dậy trên hai chân gầy sậy yếu, mở trừng trừng đôi mắt, giáp mặt với tận cùng điêu linh của tồn sinh bức bách để băng qua trùng trùng chông gai, chướng ngại, vượt qua cả ngàn oan khiên, nghiệt ngã và đã tựu thành mảnh bằng Cử nhân Triết ở Viện đại học Vạn Hạnh, trước năm 1975.

Tâm hồn sớm hun đúc trong nỗi buồn đau thân phận kiếp người, ngậm ngùi uống cạn chén đắng cay đầy lệ trào máu ứa, không ngừng nhức nhối trước bao bão lốc khốc liệt, khiến cho hồn thơ chàng chan chứa màu huyết lệ, trộn lẫn thanh âm trầm túy dị thường. Nước mắt, mồ hôi lặng trào qua những phương trời gió loạn, phát xuất từ hố thẳm tâm tư dữ dội, kỳ lạ và đã dồn tụ lại tinh hoa, tinh túy quanh vườn lòng kết trái đơm chồi nẩy lộc thành những thi phẩm : Âm Vang Và Sắc Màu ( 1991 ) Phương Ý ( 2000 ) Hòa Âm Âm Âm Âm… ( 2007 ) Huyết Âm ( 2008 ) Tinh Âm ( 2010 ) Bốn Câu Thất Huyền Âm ( 2011 ) Tám Câu Lục Huyền Âm ( 2013 ) Năm Chữ Năm Câu ( 2014 ) và sắp ấn hành Tổng Tập Thơ 45 Năm ( 1969 – 2014 ) như để tổng kết bốn bề, dồn lại tinh anh, cốt tủy một đời thiết tha tận hiến tuyệt cùng cho nghệ thuật thi ca.

Trừ hai tập Âm Thanh Và Sắc Màu, Phương Ý, sáng tác tại quê nhà thân thiết Việt Nam, còn sáu tập sau đều được làm trên đất khách tha hương, kể từ năm 2001, ở tận chân trời xa xăm bên kia đại dương nước Mỹ. Thế là thấm thoát cũng gần 15 năm trời khơi vơi đằng đẵng, chàng thi sĩ phiêu linh, lãng bạt ngàn phương viễn xứ, rồi định cư lâu dài nơi xứ sở Hoa Kỳ xa nghi ngút khói mây bay.

Mây gió thời gian rộn ràng lượn vờn về quá khứ, từ năm 1969, mới 17 tuổi, thơ Nguyễn Lương Vỵ đã có mặt trên các tạp chí Văn, Khởi Hành rồi tiếp tục đăng ở các tập san Thời Tập, Văn Chương những năm sau đó. Ngay từ lúc xuất hiện đầu tiên trên các tạp chí, tập san văn nghệ ở Sài Gòn, thơ Nguyễn Lương Vỵ liền được anh em văn nghệ bốn phương đánh giá khá cao, vì thơ có chất giọng riêng biệt, độc đáo, cô đọng với những bài tứ tuyệt hàm súc, lung linh mới lạ như Nửa Đêm Thức Dậy Nhìn Mây Trắng :

Lung linh hồn quê cũ
Mây trắng phủ khắp trời
Nhớ trăng khô hết máu
Muôn trùng dặm núi ơi !

Lời thơ ngậm ngùi một nỗi đau thời đại, một niềm u hoài sầu nhân thế thê lương. Sống bồng bềnh, bấp bênh trong thời buổi chiến tranh đang diễn ra tàn khốc trên khắp quê hương xứ sở, đêm ngày phải chứng kiến biết bao cảnh tang thương, chết chóc, khổ lụy đoạn trường, nên nhà thơ nhạy cảm sầu vô hạn man thiên. Biết làm chi hơn là lắng hồn vào âm nhạc, tìm nguôi ngoai, khuây khỏa qua từng cung cầm sâu lắng Beethoven, lặng trầm những âm thanh thánh thót, ngân nga quá cùng diễm tuyệt huyền hòa. Năm 1973 tập san Văn Chương đăng bài thơ Âm Nhạc của chàng, có dòng ghi tưởng nhớ Beethoven, một nhạc sĩ người Đức, dạt dào bản giao hưởng số 5, thấm thía sầu câm nhập máu tim hồn :

Âm nhập cốt
Âm binh phiêu hốt tiếng tru
Ta tru một kiếp cho mù mắt
Mù lệ đề thơ để nhớ đời
À ơi ! Rượu đỏ hoàng hôn tắt
Ta dắt hồn ta túy lúy chơi !

Âm nhập cốt
Âm vàng mấy gót hồ ly
Vạn kỷ cung thương còn réo rắt
Còn ru ta mãi quãng đời xanh
À ơi ! Ai hát ngoài phương Bắc
Chờ nhau, tinh đẩu sáng long lanh…

Thạch cầm vỡ
Ngàn năm thơ thẩn với âm vang
Ta ôm trời đất sầu vô hạn
Thương nhớ Thanh Xuân mộng úa tàn
À ơi ! Dâu bể chưa khô cạn
Chưa dứt tâm tư, vọng ngút ngàn…

Bài thơ ngân dài những âm vang nghẹn ngào cô độc, cô đơn rờn lạnh, một mình một bóng trong tàn xiêu hiu hắt, lặng hồn nghiêng xuống hố thẳm uyên nguyên, chạm đến mạch ngầm hư linh cùng tuyệt… Ngày tháng buồn tênh, ngơ ngác vạn cổ sầu. Đau khổ trào tuôn theo gót lữ lênh đênh lưu lạc, chàng thi sĩ bơ vơ phải sớm rời khỏi gia đình, tự bươn chải, mưu sinh kiếm sống để tiếp tục việc học hành qua các phố thị Đà Nẵng, Quy Nhơn, Sài Gòn, thành thử chàng hay lặng lẽ, khép kín như muốn che dấu bi kịch điêu linh của bản thân mình, ngay cả với những người bạn chí thiết, Nguyễn Lương Vỵ cũng không hề hé răng kể lể. Tuy nhiên qua bài thơ Nói Với Người Đã Khuất, chàng lại thổ lộ niềm đau thấu ruột bầm gan ngàn nhói buốt :

Muôn trước muôn sau là hạt bụi
Đất trời đa sự vẫn hồn nhiên
Như nhiên ?! Bụi vẫn bay lầm lũi
Sương núi mây ngàn một cõi riêng

Bụi bay có một thằng con nít
Đầu chít khăn tang ngó sửng đời
Đời vốn mồ côi từ lịch kiếp
Con nít mồ côi cũng thế thôi !!!

Ngày sặc máu nuôi thân thơ dại
Đêm xanh xương tái mặt nhớ mồ
Mồ chôn xác tươi màu nắng quái
Nắng tung ngần một bãi hư vô…

Thằng con nít thò tay ra hái
Đóa mồ côi vẽ lại thời gian
Oan khiên đó chim kêu đầu bãi
Vút duyềnh quyên một tiếng lạnh tràn…

“Người đã khuất” ở đây là cha và hai người chú ruột của nhà thơ đã bị chết oan khuất, bức tử một cách thảm khốc năm 1965. Chứng kiến cảnh đau đớn tột cùng ấy, thi nhân trực nhận, thấy ra bộ mặt thật của chiến tranh Việt Nam và thấm thía quặn lòng, cảm thương vô hạn núi xương biển máu của cả dân tộc một thời. Buốt cóng long đong mấy mùa đông dài lạnh lẽo trong bóng tối côi cút, buồn bã quá độ thê lương, bước đi giữa chợ đời bão loạn đầy oan nghiệt, xót xa giã từ lũy tre bờ giậu, ngõ trúc, vườn rau, bụi chuối… Thôi hết rồi, sông ơi, chảy đi nhé ! Chảy đi những chiếc lá vàng rơi rụng bên cổ tháp Chiên Đàn hoang vắng tịch liêu, chảy đi máu lệ hận thù u uẩn, chảy đi bao thảm họa hoành sinh, mịt mù u ám ở cố quận Tam Kỳ :

Sông ơi, em chảy bao giờ
Nước mùa sẫm lục, bến bờ về xa
Ta cầm viên sỏi phôi pha
Ném lên ngày rộng, vòng hoa tím chiều
Chiên Đàn lá rụng hoang liêu
Hồn thơ dại nhớ cánh diều đứt dây…

Sông ơi, em chảy trong ngần
Khắc ghi những dấu mộ phần ban sơ
Người thân thiết giục sang bờ
Người xa lạ bỗng không ngờ… mình thôi !
Quán Rường miếu cũ bình vôi
Hồn tre trúc dựng trang đời Thu Đông…

Quán Rường nằm giữa hương đồng cỏ nội, nơi một thời đôi chân trần trụi, bé bỏng thơ ngây tha hồ nhảy nhót, chạy tung tăng dọc theo mấy bờ ruộng lúa thả diều, tắm nắng ven sông, thả gót lan man ngát mộng gió nguyệt rằm. Tâm hồn thi nhân vẫn ngàn năm còn lưu giữ màu xanh cố quận, rưng rưng trong đôi mắt buồn xa vắng, lặng vờn theo gió nắng trời trăng sương vời vợi… Ơi chao ! Chẳng biết nói gì. Cầm cây bút viết dòng thi ca trào… Ồ, ồ, vừa đi vừa mần thơ trên khắp dặm phù du lữ thứ vui buồn.

Cuộc đời bắt đầu chơi vơi, chìm nổi theo dòng dâu bể vô thường, tuy phải chịu nhiều thử thách, gian truân, nhưng thi nhân vẫn âm thầm hàm dưỡng một nội lực vững chãi, một nội công thâm hậu. Chàng buông bỏ bớt hành trang, để nhẹ nhàng đi và đi và đi phiêu nhiên, phóng đãng như là cái nghiệp mệnh bềnh bồng, không thể nào dừng chân lại được. Bước cô lữ gõ nhịp hòa âm bài Phương Đông hành lạnh rờn xương xảu máu me, nghe tiếng khóc điệu cười của nhân loại trong từng trận trận điêu linh, ngập ngụa biển dâu giữa Âm Vang Và Sắc Màu lãng đãng :

Ngàn năm bước thấp bước cao
Ta xin bước tiếp, bước nào nữa đây ?!
Bước xa : Viễn tượng hao gầy
Bước gần : Hiện tại vẫn đầy bão giông
Vết thương nhân loại đèo bòng
Vết bầm thế giới những vòng quay nhanh
Khóc hờ, chén rượu tàn canh
Cười khan, cạn hết bài hành phương Đông
Người em nô rỡn bụi hồng
Hát rong oan nghiệt, tạ dòng sông xanh…

Dòng sông xanh là những nguồn nước chảy từ thi tưởng xứ mà nhà thơ thường lắng nghe trong lúc tàn khuya trăng khuyết, hay giữa buổi ngọ thiên tuyệt tích một mình. Thinh lặng sắt son, hồn thơ chất chứa đầy niềm trắc ẩn về kiếp nhân sinh qua từng hơi thở lâm ly, bi ai mà dạt dào hào khí, là tiếng hát yêu đời, yêu sự sống nhiệm mầu trong từng hơi thở, yêu nhạc, yêu thơ và mần thơ ráo riết, chuyên cần, siêng năng, tận tụy… Nhưng thơ là gì mà mê mẩn mần hoài như rứa ? Thưa rằng vô lượng kiếp rồi. Chuyện thơ với thẩn chao ôi ly kỳ. Thôi thì chẳng biết nói chi. Cười vang một tiếng tức thì thấy ra…

Ồ ồ, thấy ra, nhìn ra, hiểu ra, ngộ ra cái gì không rõ nữa, nhưng khi biết xem sinh tử như hoa đốm giữa hư không thì cũng rỗng rang, vô ngại mà tự tại nhàn du, luân vũ khúc thường hằng rồi. Mỉm cười bắt tay với cái chết, ôm ấp vi vu với tử thần, bắt tay với vô tận… như Nguyễn Lương Vỵ hoan hỷ bắt tay Bất Tuyệt :

Chìa ta ra bắt tay cái chết
Cái tuyệt vời giống hệt cái em
Cái vạn thuở nở ra vạn kiếp
Cái hình hài nhiếp dẫn sương bay…

Chìa tay ra bắt tay bất tuyệt
Phía đầu non xuất huyết biển xanh
Huyết vũ trụ bụi mù thao thiết
Tủy càn khôn chôn giọt nắng tan…

Chìa tay ra bắt tay vô tận
Tuyết băng kia ôm hận trắng ngời
Trắng rợn rợn trắng rờn rờn trắng
Nhắn một lời Vắng Lặng rồi thôi !!!

Vắng Lặng là gì ? Im lặng có nghĩa là chi ? Vô ngôn bất khả tư nghì ngắm trăng. Rỡn mây đùa gió vĩnh hằng. Đá cười sỏi hát rợn băng tuyết rờn. Tận miền tuyệt đích hàm ơn. Nghe ra mưa nắng sương vờn pha phôi… Rồi hoát nhiên linh thức thi nhân trực nhận gốc Đạo và nguồn Thơ vốn là một, viên dung rốt ráo giữa có và không trong một niềm thong dong, thư thả bước ra vào :

Nhìn trong thơ thấy đạo
Nhìn trong đạo thấy thơ
Nhìn trong thơ thấy gạo
Nhìn trong gạo thấy mình
Có không thiệt rốt ráo…

Đó là cái thấy trùng trùng duyên khởi trên cung bậc bất nhị của Nhạc và Thơ. Trong lời bạt tập thơ Huyết Âm, thi sĩ Lý Đợi có trích dẫn lời Nguyễn Lương Vỵ lý giải, bày tỏ về thơ : “Hành trình của văn học nghệ thuật nói chung và thi ca nói riêng là sự trở về Tịch Liêu, Tịch Lặng, Tịch Mịch như Nguyên Thủy, Nguyên Sơ của nó, bằng bàn chân, bàn tay có gắn con mắt, lỗ tai trí tuệ bão giông. Vì vậy cứ tiếp tục mần thơ. Mần một cái việc Đại Tào Lao, hoan hỷ điên theo kiểu rung động của mình. Thế mà vui !” Như vậy chuỗi Âm trong suốt đời thơ Nguyễn Lương Vỵ, phải chăng là nỗ lực chuyển Âm, đẩy Âm cho đến chỗ tận cùng, chỗ Tịch Liêu Vắng Lặng, Tịch Mịch như Nguyên Thùy, Nguyên Sơ của tính thể ban đầu ? :

Câu thơ này kiên khổ
Lì đòn chờ âm rung
Chờ nát tan tri ngộ
Chờ ngất gió loạn bùng
Một cú nhảy sau cùng…

“Một cú nhảy sau cùng” là một cú nhảy trọng đại, rốt ráo để nhảy tung vào cõi  hoan hỷ địa xả buông. Buông là buông xả, buông bỏ, buông xuống hết sạch sành sanh mọi cái gọi là sự nghiệp, tài sản, bằng cấp, lợi danh… của suốt một cuộc bình sinh tận tụy, hì hục tạo dựng trên cõi phù vân nhân thế này. Biết buông bỏ được vì đã biết nắm cầm chắc nịch trong hai bàn tay rớm máu, thấm đẫm đủ đầy kinh nghiệm lịch lãm giang hồ, rờn rợn giá băng, quằn quại của kiếp con người. Bao nhiêu hương sắc trần gian, âm vang, hình tướng, bao nhiêu học thuyết, triết lý, chủ nghĩa, dục vọng, sân si, hỷ, nộ, ái, ố… đều tan biến vào hư không, chỉ còn lại lấp lánh ánh tinh sương, long lanh rực ngời gió trăng, tặng trao hào phóng, trên đường về tịch mịch vô ngôn cùng Hòa Âm Bụi Đỏ :

…Ơi bụi đỏ, có ngàn trùng lưu dấu
Có em đau nhật nguyệt với sơ huyền
Với tuyệt đích Hòa Âm Câm Nín Máu
Chiều thì xa, ta vụt mất cơ duyên!!!...

Trong một bức thư, nhà thơ Nguyễn Tôn Nhan gởi Nguyễn Lương Vỵ, tháng 6 năm 2007 ( in lại trong tập thơ Hòa Âm Âm Âm Âm… ) có đoạn viết : “Thi ca sẽ giúp “sau trước tỏ nguồn cơn.” Đến bây giờ, ở trong nước và ngoài nước ( thực ra tôi đâu có khái niệm gì về trong hay ngoài ) tôi chỉ nhờ thơ Vỵ giúp tôi tin ở những cuộc “viễn mộng” xa xôi nọ. Tôi phải cảm ơn Vỵ nhiều lắm. Hãy cho tôi đọc nhiều thơ nữa đi, đọc suốt đời càng thích. Vì “chữ” của Vỵ đâu phải chỉ có “chữ” không thôi, nó chính là Tính Linh của chúng ta, dù chỉ là loại tính linh đầy những máu : “Với tuyệt đích Hòa Âm Câm Nín Máu.” Bài Hòa Âm Câm Nín Máu ấy mới chính là tiếng gầm rung rinh cát bụi trần gian. Phải không Nguyễn Lương Vỵ ?”


Tâm tình của tri kỷ, tri âm rúng động đất trời, Nguyễn Lương Vỵ đã đáp lại bằng một bài thơ với tất cả tâm huyết của mình, nhân ngày giỗ giáp năm của Nguyễn Tôn Nhan ( mất ngày 31.01.2011 ) :

Bồng bềnh bồng bềnh như u mộng ảnh
Đêm cuối năm sóng sánh một trời thơ
Chữ biệt tích ý biệt tăm quá lạnh
Nhớ bạn hiền ngồi độc ẩm bơ vơ

Tay gõ phím vu vơ tìm tiếng vọng
Tiếng cười năm xưa giọng nói vang trầm
Hất mái tóc nhắc Lão Đam lồng lộng
Đạo khả Đạo… phiêu bồng cao hứng ngâm…

Thánh Ca rất xanh dưới trời Tượng Số
Lá tương tư tự vẫn dưới chân đồi
Thi sĩ để tang cùng mây vạn cổ
Rồi trầm mình trong huyệt mộ mồ côi

Tay gõ phím tìm nhau nơi đất lạ
Mà trời rất quen Lục Bát Ba Câu
Câu lục cuối nhẹ thênh mà buốt quá
Khều cái mênh mông sấm động gió đau…

Hãy dựng sẵn ngôi nhà mây Ngu Cốc
Chờ ta về cùng đọc thơ huyền âm
Lạnh lạnh lạnh trầm trầm trầm tán dóc
Huyền chi hựu huyền nhậu với sương câm…

Tình bạn của hai nhà thơ Nguyễn Tôn Nhan và Nguyễn Lương Vỵ rất chân tình, trước sau như nhất, thật hy hữu, hiếm hoi trong thời buổi nhiều đổi thay này. Chính niềm tin vào thi ca, vào cái đẹp vĩnh hằng của thi ca đã tạo được sự rung động, đồng cảm sâu xa, quá đỗi chí tình, chí cốt, tâm đầu ý hợp đến như vậy.

Thấy gì chăng, cõi thơ mở ra những ÂmChữ là sự khám phá lâu dài, kiên nhẫn, không mệt mỏi của thi nhân. Với vốn tri thức Đông phương thâm trầm, sâu thẳm, thường ẩn mình trong tịch cốc cô liêu, để nghe lại cái Nghe, thấy lại cái Thấy ban sơ, nên chi mỗi tập thơ ra đời là một dấu ấn độc đáo, chứa đầy sự khai phá mới lạ của một người có dụng công, nỗ lực Tu Thơ. Thơ của chàng mang chất cổ điển nhưng cũng rất hiện đại, giàu hình ảnh, gợi hình gợi cảm, nhiều biểu tượng, siêu thực, tượng trưng và ẩn dụ, hoán dụ tài tình. Hồn thơ lênh láng, trang trải, bay lên hòa âm thâm thúy cùng với những bậc tiền bối như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Bùi Giáng, Hàn Mặc Tử…

Từ thuở nhỏ, thi nhân đã tự nhận Nguyễn Trãi là bậc thầy trong đời thơ của mình, hết lòng kính ngưỡng bậc đại thi hào dân tộc này, đối với Hàn Mặc Tử, nhà thơ vĩ đại của thi ca Việt Nam, Nguyễn Lương Vỵ dành riêng một niềm quý trọng, ngưỡng mộ vô cùng và nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ thượng thừa mà thi ca và tư tưởng đã thấm sâu vào xương tủy bao nhiêu tơ tưởng vô vi, ý niệm tiêu dao, hào sảng, un đúc thành nghi ngút lửa tim hồn. Đốt lên ngọn lửa Thơ Vô Tận Vui huy hoàng bát ngát, mở ra Ngày Tháng Ngao Du phóng khoáng tang bồng, khiến cho Nguyễn Lương Vỵ luôn luôn gìn giữ ánh lửa thiêng đó, không bao giờ để ngọn lửa thi ca trong lòng tàn lụn, làm nhụt chí nam nhi.

Đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, dưới nhãn quan của kẻ đăng trình, thích khám phá phiêu lưu, mạo hiểm vào những phương trời sáng tạo, ưa nhập cuộc tưng bừng luân vũ rạt rào, nhào lộn giữa tồn sinh, thử xem chữ tài chữ mệnh có lênh đênh, bềnh bồng trôi lăn lông lốc đến đâu. Sẵn sàng dang tay chấp nhận tất cả mọi nghịch cảnh như Thúy Kiều chấp nhận mười lăm năm luân lạc nổi trôi. Trôi và chảy, chảy và trôi cho đã cái đời lêu lổng lang thang, để rồi cùng rung lên cung bậc Hòa Âm Lục Bát Nguyễn Du - Bùi Giáng :

Một xe trong cõi hồng trần
Như bay ( Hãy một đôi lần thử xem ! )
Bay đi bất kể ngày đêm
Vù mu thiên cổ đã mềm môi chưa ?
Sá gì Tài Mệnh cù cưa
Trăm năm trong cõi dây dưa em Kiều
Hỏi rằng : Em đẹp bao nhiêu ?
Bao nhiêu thì bấy nhiêu điều Đạm Tiên
Liên tồn hồn hậu tuy nhiên
Đoạn trường thế ấy cuồng điên thế nào ?...

Cái giọng thơ nồng nàn pha chút rỡn đùa, nhưng nghe đau thấu ruột gan của kẻ hậu sinh đồng cảm với bậc tiền bối Nguyễn Du và đàn anh Bùi Giáng. Thơ và nhạc hoài vang ngân trên gót lữ phong trần, chàng thi sĩ chỉ còn biết tiếp tục sống và sống quyết liệt, sống hết mình hết dạ với cõi người ta, với anh em bằng hữu và nhất là bạn bè văn nghệ tứ xứ, mười phương.

Đối với chàng, sống trên cõi trần gian này, bạn bè là trên hết, ưu tiên trước hết, dù còn sống hay đã chết, dù thành đạt hay hàn vi, chàng vẫn trân trọng đối xử với tất cả tấm lòng nhiệt tình, sòng phẳng, hăng say. Về cái khoản bạn bầu thân sơ này, có lẽ chàng là người có bầu bạn đông đảo nhất. Gần gũi, mật thiết như ruột rà, có những mối giao tình sâu đậm, sâu xa là nhà thơ Joseph Huỳnh Văn, một kẻ tài hoa, đức hạnh, thanh lương, được chàng tặng thơ khá nhiều, như bài Khúc Cầm Dương Trên Đường Về :

… Này khúc cầm dương trên đường về
Mười lăm năm ta vẫn lóng nghe
Vẫn mở ngực chiều ngực khuya ngóng đợi
Câu thơ tuyệt bi âm đâu hề chi

Đâu hề chi tiếng vọng lá khô
Bi âm kia là âm huyền hồ
Cao hứng thì nhắn trăng xưa hạc cũ
Còn không thì cụng trán với hư vô…

Muôn thu ngơ ngác cũng vậy thôi
Ngồi lau năm tháng nhắn xa xôi
Lời cổ thạch trăng huyền âm gõ nhịp
Người cười im ta khóc nín sóng đôi…

Đó là 3 khổ cuối của bài thơ, Nguyễn Lương Vỵ viết nhân kỷ niệm 15 năm, ngày giỗ thi sĩ Joseph Huỳnh Văn. Mối giao tình của nhị vị thi sĩ này cũng khá sâu nặng, như đôi bạn vong niên. Năm 1973, Nguyễn Lương Vỵ gởi bài thơ Âm Nhạc đến tập san Văn Chương và đã được Joseph Huỳnh Văn chọn đăng ngay số báo tiếp sau. Cơ duyên thiện cảm bắt đầu từ đó, càng ngày càng bền bỉ cho đến năm 1995, thi sĩ bất ngờ lên đường, qua chơi bên miền không có đâu giữa thiên thu vời vợi...

Trời thơ Nguyễn Lương Vỵ tiếp tục rung ngân bản hòa âm thâm cảm với những tâm hồn đồng điệu, như nhà thơ Võ Chân Cửu, một bạn hiền cố cựu từ lúc còn trọ học ở phố biển Quy Nhơn thuở thiếu thời. Cuối năm 2012, Võ Chân Cửu làm một chuyến du lịch, phiêu lưu sang Hoa Kỳ. Suốt hai tháng rong chơi khắp nước Mỹ đến ngày quy cố hương, Nguyễn Lương Vỵ không quên gởi gắm niềm chia sẻ qua bài thơ Một Mình :

… Một chớp nháy một niềm trời
Hạt bụi bay lang thang chơi
Vết hằn xoáy theo trốt gió
Miềm thương tít tắp trùng khơi
Rạch một âm sâu nhớ bạn
Gõ vài phách lạnh đau đời
Năm với tháng chìm trong ngực
Mở lời thưa một tiếng thôi…

Một lời thôi cũng đủ, một tiếng thôi cũng vừa, phải không hỡi những văn nghệ sĩ tri tâm, tri tình ? Tình huynh đệ, nghĩa bạn bè sâu nặng, gắn bó với thi ca qua bao nhiêu cuộc dâu bể vô thường vẫn không hề suy giảm mà càng thêm thấm thía chứa chan, quả thật là quý giá biết bao nhiêu. Nhiều khi rảnh rỗi, ngồi thưởng thức những vần thơ Nguyễn Lương Vỵ viết về những thi nhân đã khuất như Huy Cận, Hồ Dzếnh, Hữu Loan, Quang Dũng, Phạm Hầu, Phạm Phú Hải, A Khuê, Vũ Hữu Định, Nguyễn Tất Nhiên… thì có lẽ, ai trong chúng ta cũng không tránh khỏi xúc động bồi hồi. Ngay cả khi làm thơ gởi tặng những thi sĩ còn hiện tiền tại thế, Nguyễn Lương Vỵ đều dành trọn vẹn sự trân trọng với người thơ, với Thơ bằng tất cả niềm cảm ứng có được của mình. Đó là điều hy hữu, đáng trân trọng trong phong cách sống, lối cư xử ở đời như một nhà thơ đích thực Đông phương.

Mang mang khúc tình ca nhã nhạc rung rinh. Nằm trong cô tịch, nhà thơ lặng yên, nghiền ngẫm bao tuồng đời diễn ra khắp ta bà là bóng hiện của cảnh giới tự tâm. Tâm mình nghĩ sao thì ứng hiện ra cảnh đời như vậy đấy thôi. Vì thế thi sĩ thường hay lui về với chính mình, lặng lẽ độc thoại nội tâm trong thi tưởng xứ uyên mặc, uyên tư…

Sống lang thang lãng tử, biệt xứ gần mười năm trời trong sầu nhớ khôn nguôi về quê nhà, cố xứ mù xa, rồi một hôm bất chợt nghe hung tin mẹ già đã tàn xiêu yếu ớt, còn gắng gượng chút tàn hơi thở sau cùng, nên thi sĩ liền vội vàng, tức tốc bay về cố quận. Rưng rưng quỳ xuống giữa vườn xưa, còn thưa thớt màu cỏ cây héo úa, tàn tạ trong nắng xế chiều tà vàng vọt, sụp cúi lạy mười phương gò đống, mồ mả, lạy hết cõi ta bà mà tạ ân sâu nghĩa nặng tình thâm :

Con về bên Mẹ, nghe huyết âm
Nghe tủy xương réo rắt mưa dầm
Có lịch kiếp chảy xiết huyễn ảo
Cho tuyệt cùng âm, âm điếc thâm…

Con về bên Mẹ, thấy lá thắm
Thấy tinh sương xướng âm thăm thẳm
Lục phủ ngũ tạng bè mây trôi
Tụng một thời kinh cho huyết ấm

Quỳ xuống lạy hết cõi ta bà
Tai mắt rưng rưng rừng thi ca
Chắp tay hứng trọn huyết âm Mẹ
Lô hỏa thuần thanh âm huyết hoa !!!

Mẹ và em là hai hình ảnh đẹp đẽ nhất trên cõi nhân gian này, đẹp quá đi thôi, khiến chàng thi sĩ ghiền sống đến độ say mê dữ dội, dang rộng hai tay ra mà ôm trọn lấy toàn thể cuộc đời. Giống như văn hào Dostoievsky nói : “Cái đẹp sẽ cứu rỗi thế giới” Nguyễn Lương Vỵ cũng đem hết tâm tình hiến dâng cho cái Đẹp, phụng sự  cái Đẹp qua hành động rất trân trọng là quỳ lạy cái Đẹp, một hành động tôn nghiêm như lạy Phật, lạy Chúa chưa từng thấy xưa nay :

Lạy em đẹp mãi cho ta mừng
Mần thơ ào ạt như chưa từng
Cái chi cũng đẹp cũng ứng mộng
Cỏ áy hừng đông mượt quá chừng…

Lạy em đẹp mãi cho ta vui
Mần thơ ngùn ngụt ngún một nùi
Chẳng sợ hồn tan hay vía nát
Rất vô tư nhậu với ngậm ngùi…

Lạy em đẹp mãi cho ta sướng
Mần thơ cộng hưởng với âm u
Chẳng sợ đầu non hay cuối vực
Rất hồn nhiên đụng cái mịt mù…

Nhìn thấy tất cả cái gì trước mắt, từ hoa lá cỏ cây đến tinh tú, càn khôn vũ trụ, bất cứ cái chi chi cũng đều đẹp, đẹp hết qua hình ảnh người em thi ca. Em là biểu tượng cho cái đẹp hoàn hảo, trinh nguyên, tuyệt diễm nhất của trần thế. Em là nguồn cảm hứng bất tận cho nghệ thuật thi ca, âm nhạc, hội họa và tác động mạnh mẽ vào mọi lãnh vực xã hội trong cuộc sống.

Người thi sĩ biết sáng tạo ra cái mới lạ, biết sống triệt để kỳ cùng cho bùng nổ hết tam độc tham, sân, si cùng vỡ tan hoang hang ổ vô minh, nghiệp chướng. Từ đó mới rực sáng tinh anh, thanh tịnh tâm hồn mà thưởng thức vẻ đẹp Chân Thiện Mỹ kỳ tuyệt hiện về trên dòng yêu thương trong trẻo rạt rào, dào dạt từ suối nguồn muôn thuở thương yêu diệu dụng.

Diệu dụng cũng là biết mình đã đầy đủ rồi, chẳng còn thiếu thốn điều chi. Biết đủ là một thái độ nhẹ nhàng, thanh thản của kẻ thông tuệ, lịch duyệt trong cuộc sống đầy dịch chuyển, biến động này. Không tham muốn, ôm đồm vơ vét, chẳng bươn chải, nhục nhằn chuyện ăn uống se sua. Thua với hơn làm chi nữa giữa ngày tháng rong rêu nơi xứ lạ quê người, thôi cứ nhẹ mỉm cười tri túc tự nhiên :

Biết đủ nên bài thơ viết chậm
Âm trùng âm, đầm đậm kiếp người
Gỏn lỏn một đôi lời lạnh ấm
Gởi về sau lẩm bẩm tài bồi

Biết đủ nên bài thơ viết nhanh
Ngôn trùng ngôn, níu thanh tượng thanh
Ta biệt xứ ?! Ừ ta biệt xứ
Mưa nắng bão bùng ngọn lửa xanh…

Ngọn lửa xanh mãi cháy ngời tịch mịch trong lòng dường như gần đến độ “lô hỏa thuần thanh” rồi, cho nên thi sĩ tuy ngậm ngùi nơi xứ lạ mà vẫn miệt mài sáng tạo và sáng tạo, nỗ lực kiên trì khai phá cõi thơ, nguồn thơ bát ngát tràn bờ Huyết Âm, Tinh Âm, Huyền Âm… Nguyễn Lương Vỵ đi về mặt đất hoang vu này, hú lên một tiếng hú lanh lảnh, lạnh rờn giữa bao la trong bóng chiều thiên thu óng ả và lặng lẽ Hòa Âm Câm Nín Máu vỡ cung sầu.

Thấu triệt cõi nguyên sơ, mở rộng từ trái tim rúng động tuyệt cùng với tất cả ba đời, sáu cõi trần sa. Hòa âm xanh ngát hàng ngàn bài thơ kính tặng mười phương thục nữ, thấm đượm gió trăng bằng hữu, thơm tho hương vị chí cốt ruột rà. Hòa âm giọt lệ và nụ cười, khổ đau và hoan lạc, địa ngục và thiên đường, thẩm thấu hai miền âm dương, vượt qua biên tế nhị nguyên, nhảy tung vào cung bậc Nhất Như một cách thanh thản, tự do tự tại.

Phải chăng, đó là bản hòa âm vĩnh viễn miên trường của Nguyễn Lương Vỵ ? Tôi đã có dịp nhiều lần nghe ra qua những lần tao phùng, trùng ngộ với thi sĩ tại nhà riêng ở Gò Vấp hay các quán nhậu lai rai quanh phường phố Sài Gòn. Dịp gặp gỡ gần đây nhất, nhân chuyến thi sĩ về thăm quê, là buổi họp mặt đầu năm 2014 ở nhà nữ sĩ Lê Phương Châu, quận 6, Sài Gòn. Hôm ấy, có nhà thơ Võ Chân Cửu, Mịch La Phong, Triệu Từ Truyền, Nguyễn Hữu Duyên và nữ sĩ Nguyễn Kim Anh, Hạnh Hiền tham dự.

Rồi vài ngày sau, ở quán Đất Phương Nam, có Trần Xuân Kiêm, Nguyễn Tiến Văn, Phạm Việt Cường, Phù Hư và gần chục bằng hữu làm một trận lu bù, cụng ly tiễn đưa thi sĩ qua lại Mỹ. Bữa đó, tôi có mần bài thơ Thơ Tiễn Nguyễn Lương Vỵ này như thầm gởi theo điều gì vi vu vi vút qua bên kia miền viễn xứ xa mờ, thở nhẹ tiêu dao du cùng mấy bờ sương khói tương tri :

Đã đi tận chân trời góc bể
Về nơi đâu cũng vậy diêu mang
Không cầu chẳng đắc gì thêm nữa
Cứ du ca qua lại mãi hoang đàng

Tan mù tối rơi trên cái thấy
Ngay bây giờ thở nhẹ tiêu dung
Cùng thơ nhập diệu phiêu bồng mở
Cửa thiên thâu sâu thẳm tuyệt cùng

Âm vang và sắc màu hư ảo
Tạo nên đời như huyễn mà thôi
Đôi bờ mộng thực bừng ngây ngất                                
Vẫn say sưa xuống biển lên đồi

Hòa âm với tinh âm, huyết âm nhập
Vào vô thanh tan giữa vô hình
Huyền âm thâm thúy trời phương ý
Dị thường nghe cơn gió thoảng phù sinh

Tâm Nhiên

Thơ Nguyễn Lương Vỵ ( chữ nghiêng ) trích trong các tác phẩm :
Âm Vang Và Sắc Màu. Nhà xuất bản Trẻ, Sài Gòn 1991
Hòa Âm Âm Âm Âm. Nhà xuất bản Thư Ấn Quán, New Jersey 2007
Tinh Âm. Q&P Production. California 2010
Năm Chữ Năm Câu. Q&P Production. California 2014