Thi sĩ Phạm Phú Hải ( Đà Nẵng 2000 )
Có lẽ đã thở lầm hơi thở
Của ai kia từ buổi lọt lòng ra
Mây trắng quá suốt đời ta nói mớ
Nên suốt đời mây trắng vẫn bay xa
Chỉ mấy câu thơ, Phạm Phú Hải đã tài tình lột tả được nỗi niềm thân
phận, nghiệp mệnh khốc liệt của chính mình. Sinh năm 1950 tại Điện Bàn, Quảng
Nam, Phạm Phú Hải lớn lên bên dòng sông Hàn, Đà Nẵng. Lặng lẽ với một hồn thơ
bẩm sinh, mẫn tuệ, trực cảm mạnh mẽ, dường như thi sĩ sinh ra đời chỉ thực hiện
một sứ mệnh duy nhất là làm thơ và làm thơ mà thôi. Thơ là hơi thở, là bước đi kỳ
cùng bất tuyệt, huyền chi hựu huyền trên con đường không lộ vô vi.
Nghỉ học sớm, vì bị một căn bệnh oái oăm tâm thần phân liệt nhẹ, nên ở
nhà đóng cửa đọc sách, miệt mài, miên mật suốt mấy chục năm trường đến độ gần
như tẩu hỏa nhập ma, nhưng rồi nhờ nội lực thâm hậu đã vượt qua được cửa ải
thập tử nhất sinh kinh hồn ấy một cách ngoạn mục. Rung cảm, nhập diệu vào cảnh
giới Hoa Nghiêm trùng trùng vô lượng trí, vô lượng tâm, ăn nằm thâm thiết cùng
tam tạng kinh điển đại thừa, nhảy múa cùng triết lý Đông Tây kim cổ, nhào lộn
trên phương trời đạo lý, hý lộng tự do.
Có nhiều khi xuất thần leo lên đỉnh Linh Sơn ngồi nghe pháp âm rền vang
dội, lội xuống suối Tào Khê uống ngụm nước thiền vô niệm Huệ Năng, vào động
Thiếu Thất gõ cửa thưa hỏi, tham vấn tổ Bồ Đề Đạt Ma về pháp thiền đốn ngộ tối
thượng thừa, đùa chơi hội thoại lai rai cùng thi sĩ Vương Duy, Lý Bạch, nghe
tiếng hét gầm sấm sét của Lâm Tế, rồi dập dìu hát nghêu ngao cùng Trang Tử theo
thể điệu tiêu dao du, lãng đãng suốt đêm ngày :
Sương gieo chữ trắng nghiêng bờ
sậy
Mưa phủ vần xanh lã ngọn tùng
Linh Thứu pháp âm còn cuộn dội
Tào Khê thiền khí vẫn tràn tuôn
Vương Duy dụi mắt van đơn độc
Lý Bạch huơ tay chữ điệp trùng
Nuốt lưỡi Đạt Ma cười đất sụp
Phun môi Lâm Tế hét trời rung
Thi Khê Tuyền thấm hồn thanh thản
Đạo Chấn Lôi tan mộng hãi hùng
Ngày Lão Đam giăng mây huyền ảo
Đêm Trang Chu tỏa khói mông lung
U mê chất giữa lò than rực
Hôn ám đun trong bếp lửa phừng
Tam thế cháy tiêu ngày xuống núi
Thập phương rụi nát buổi lên rừng
Tam thế là ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai đều tiêu dung hết. Lên rừng
xuống núi, ruổi rong khắp mười phương trong thế giới nội tâm trầm tư uyên mặc,
uyên nguyên, Phạm Phú Hải đi về mặt đất hoang vu, băng qua sa mạc cát sỏi, đất
đá lăn quay đầy gió nắng, sương mù từ nguyên sơ đắm đuối. Lủi thủi, lầm lũi một
hình một bóng lạnh rờn trong hầm hố cô đơn cóng buốt suốt tuế nguyệt căm căm.
Tự nguyện cưới hỏi cô đơn, sống trọn vẹn với niềm cô đơn tối hậu như Bùi Giáng,
như Nietzsche, như Hoelderlin, những thiên tài kỳ vĩ trên mặt đất.
Nhìn ngắm cảnh đời bằng thái độ vô sở cầu, vô sở chấp, sống âm thầm như
giọt sương nương náu qua ngày tháng đạm bạc đơn sơ dưới mái nhà bao dung che
chở của mẹ già. Sống độc thân, độc hành, độc đạo như một giấc mộng đặt trên một
giấc mộng, không vợ con, không lý tưởng, không sự nghiệp, không tài sản, không
địa vị, không trách nhiệm, không bổn phận, không bè lũ, đảng phái, phe nhóm nào
cả. Không là chi hết trên ngõ về vô sở trú giữa không gian và thời gian.
Lang thang thả bộ hành quanh quẩn bên mấy con đường qua lại bờ bến sông
Hàn, rồi một hôm thi nhân dấn bước rong chơi qua miền biển trời Non Nước, đứng
trên đồi cao nhất ngọn Ngũ Hành Sơn rờn biếc mộng, vời trông lên những cụm mây
trắng nắng vàng đang chuyển dịch qua đủ muôn hình vạn trạng, tạo thành nhiều
bức tranh vân cẩu mà liên tưởng đến những hình ảnh cuộc đời cũng đang thiên
diễn vô thường giữa cuộc phù du hữu hạn, thoáng chốc, mong manh như Mây Trắng :
Lão già cưỡi con ngựa già
Trắng phau lừng lững bay qua ngọn
đồi
Ngọn đồi người ngựa cùng trôi
Chao ơi ! Ta thấy cuộc đời quá
mau
Cuộc đời vèo qua mau quá, mọi sự đều chóng vánh tàn tạ, tàn phai. Cái
thấy nhạy cảm ấy đã theo sát từng bước chân của thi nhân và đã tạo thành bước
nhảy khôn dò qua hố thẳm không đáy của thi tưởng xứ. Có một lần cùng họa sĩ
Hoàng Ân lang thang lên đèo Hải Vân chơi, viếng chùa Huyền Không thăm nhà thơ
Minh Đức Triều Tâm Ảnh. Hồi đó, khoảng năm 1976, chùa Huyền Không còn trên đèo
Hải Vân gần thị trấn Lăng Cô. Đêm nằm ngắm trăng sao chiếu diệu trên sườn đồi
cỏ hoa thơ mộng nhìn xuống muôn trùng biển trời bát ngát mênh mông, thi sĩ tha
hồ phiêu dật tận cõi tang bồng :
Về đây nằm giữa Huyền Không
Khuya nghe bão chuyển tự lòng đất
ra
Mai kia nhật nguyệt tan nhòa
Sẽ còn ta đứng bao la bóng hình
Nghìn năm trước nửa hồi kinh
Nghìn năm sau một tiếng kình bơ
vơ
Thanh âm níu lại giữa tờ
Buông tay ngọn bút xóa mờ biển
dâu
Tro tàn chẳng gởi về đâu
Luồn qua cửa những bóng câu âm
thầm
Đồi cao khói điếc sương câm
Mây mù là bạn tri âm thuở nào
Rào rạt nguồn thơ mở bừng ra cõi miền thiên cổ như thế, mạch thơ chảy về
thao thiết uyên tư. Từ năm 1966, mới 16 tuổi, Phạm Phú Hải đã bắt gặp nàng thơ
diễm kiều đi về phiêu phưỡng, phiêu dật nên tiếng thơ tần ngần bỗng bật dậy
ngân dài giữa trường mộng nhân sinh. Tiếng thơ ấy mang âm hưởng, dư vang khác
thường như tiếng hú lanh lảnh của loài vượn trong rừng sâu rú thẳm, như giọng
chim trời đồng vọng giữa sương bóng mênh mang… Rồi đọng lại thành hàng nghìn
bài thơ chép rải rác, thất lạc đâu đó, chỉ còn lưu giữ được qua những thi tập :
Thâm Lâm Ngâm, Tiếng Hú Đầu ( bản thảo ) và
đã đủ cơ duyên xuất bản hai tập, sau khi thi sĩ qua đời : Một Hôm Núi Khóc ( 2009 ) Gánh Nước Tưới Sông ( 2010 ).
Từ mộng đến mộng trong cõi giới tuyệt trù tư tưởng đến hư tưởng, phi
tưởng, phi phi tưởng ấy, chàng thi sĩ thường xuyên rơi vào những trạng thái xuất
thần, xuất cốt, cho nên trong thơ chàng cũng thường chứa nhiều ẩn dụ, tượng
trưng, hoán dụ, siêu thực vi vu như cơn gió chiều thiên thu lồng lộng, như con
cá nhỏ chết bên cầu ấy bữa xưa rồi bất thình lình sống lại hôm nay, như gã thư
sinh vô danh nọ lên núi đá, hỏi thăm đường đến chốn Bất Lai, chốn miền vô quy,
không trở lại trần gian này nữa, như gã tiều phu kia vào rừng xanh núi thẳm làm
ẩn sĩ mười lăm năm đến độ râu tóc óng ả, tỏa ngời ngời vô lượng quang, vô lượng
ánh sáng tự do, tự tại… Có phải thế chăng, hỡi người thi sĩ tài hoa, khi phóng
bút làm bài thơ độc đáo, kỳ lạ : A, A A, A A A, A A A A, A A A A A… ( Bất Tận,
Âm Thanh A Bất Tận… ) :
Lạnh mùa thu ở trong núi đá
Có con cá nhỏ chết bên cầu
Có con chim nhỏ vì vui quá
Cũng chết bên cầu ấy bữa xưa
Có gã thư sinh lên núi đá
Hỏi thăm đường đến chốn Bất Lai
Trăng khuya úp mở sau ngàn lá
Bướm đỏ đàn đàn chấp chới bay
Có lão tiều phu trong núi đá
Mười năm say hương quế quên về
Lều dựng gió đầy rung mái gió
Một bầu cô nguyệt chảy tràn khuya
Trăng khuyết xuôi trăng tròn
trăng khuyết ngược
Bứt tháng hái ngày phơi khô năm
Năm khô râu mới đùn râu cũ
Sợi sợi ấn ngời vô lượng quang
Xuất định bốn bề sương giọt giọt
Con chim xưa sống lại bên cầu
Tiều lão mặt trời vai tịch tịnh
Mặt trời rơi xuống giữa dòng sâu
Chẳng đến đâu chẳng từ đâu đến
Con chim ngày cũ hót inh rừng
Bên cầu đứng ngắm hai dòng nước
Một chảy xuôi đông một ngược
nguồn
Không ở đâu không đâu chẳng ở
Cá hồi dương lội ngược chiêm bao
Cầu gãy hai bờ xưa tương ngộ
Trùng trùng từng hột đất xôn xao
Xôn xao theo nguồn xưa suối cũ dung thông. Không ngại gì, khi một bọt
nước biết mình vốn là nước đang trôi giữa dòng sông. “Chẳng đến đâu chẳng từ đâu đến” hay là không từ đâu đến và cũng chẳng
đi về đâu, là lấy ý từ kinh Kim Cang : “Vô
sở tòng lai diệc vô sở khứ.” Thấu thị được lẽ như thị kia bằng cách nhìn và
cách thấy riêng biệt theo thể lệ như nhiên, nên dòng thơ cứ trôi chảy, chảy
trôi trong tiếng vọng không lời.
Phạm Phú Hải, một thi nhân đích thực đã nếm được vô cực vô vi, cúi xuống
hòa mình trong tịch mịch, tịch liêu vắng lặng, tha thiết ngắm nhìn vầng trăng
huyền mộng, chan chứa một điều chi bí ẩn vô ngôn. Hồn hồn ngạc ngạc gần như
tịnh khẩu suốt mấy chục năm dài, để lắng nghe tiếng thơ ngân lên trên cung bậc
vô thanh vô ý, khi người thi sĩ đi từ ý thức đến vô thức, từ thực tại đến chiêm
bao, từ bình thường đến khác thường :
Có bàn chân dài hơn con đường
Nên chân trời là những đốt xương
Của ai bỏ lại ngàn năm trước
Sửng sốt kêu lên tiếng dị thường
Ngủ cũng có đôi khi mở mắt
Chiêm bao thấy được vạn màu xanh
Giận quá giận đất trời vô loại
Nhẫn tâm xô chết những bình minh
Đi một mình đứng lại một mình
Dài hai bên thạch đỉnh chênh vênh
Thử buông tay thả người lơ lửng
Ở giữa thinh không lại ngủ quên
Trăng cho thi sĩ màu du tử
Đứng lại để nhìn vũ trụ đi
Cất bước mà xem khôn kiền chật
Bỏ bước về thanh khí tương tri
Nhạn gọi én xa mùa bước biệt
Có mây già lụm cum đi theo
Du tử cuối đời về góc núi
Bỏ lại trên sông một tiếng chèo
Một tiếng chèo khua sóng nước nhẹ thênh, không để lại vết tích gì cả
cũng như cánh chim én, chim nhạn bay qua dòng sông, không lưu dấu bóng hình
chi. Chim vẫn bay, nước vẫn chảy và ngày tháng vẫn trôi đi như mây trắng lặng
thầm. Nằm trong cô tịch, thi sĩ lặng yên, nghiền ngẫm bao tuồng đời diễn ra
khắp ta bà là bóng hiện của cảnh giới tự tâm. Tâm mình nghĩ sao thì ứng hiện ra
cảnh đời như vậy đấy thôi, như nghĩ đến màu trăng lung linh, huyền ảo là hồn
dạt dào bao màu du tử xưa sau.
Màu du tử là màu gì ? Phải chăng đó là màu lang thang, lãng đãng phong
trần, phiêu bạt man thiên, là màu trăng cố quận đã biền biệt xa trong hút mù
tiềm thức, là màu hoa trên ngàn giữa mênh mang sương bóng hay là màu tương tri
của lẽ đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu giữa trời đất nhật nguyệt, vũ
trụ càn khôn ? Chốn miền bờ cõi thanh tân nào cho trăng sao chiếu hiện, cho
trăng ngủ sườn non, nghe khe suối reo ca. Thơ và trăng cùng khiêu vũ, múa hát
trên đồi mộng. Thơ dầm dề chảy tuôn buốt lạnh ngàn trăng, hằng cửu trăng thơ nở
một nụ sững sờ.
Thơ làm cho thi nhân nhìn thấy những gì kẻ khác không thể nhìn thấy
được, chỉ có thi nhân mới thấy, mới nghe được cái thấy, cái nghe vô hình, bất
động lắng sâu dưới sự va cham của âm ba và vọt lên trên sự tịch lặng của vô
thanh vô hưởng. Tưởng như những câu hỏi của loài người về kiếp nhân sinh, luân
hồi sinh tử là dễ trả lời nhưng thực ra, có mấy ai đáp được trọn vẹn sự hiện
hữu của chính mình ? Chỉ một câu hỏi đơn sơ “Tôi
là ai ?” thôi, thì cũng đủ cho thơ mở ra bát ngát những phương trời vô tận,
vô cùng như ngàn năm mây trắng mãi lê thê :
Ai ở triền non gánh lửa về
Ai tìm tuyệt cốc đốt u mê
Ngàn sau mây vẫn là mây trắng
Trăng ngủ lưng đồi mộng suối khe
Ai bay bằng cánh nhẹ hồn nhiên
Ai mỏi hai tay gỡ trược phiền
Ta chẳng là ta nên chẳng thể
Chẳng phiêu bồng nẩy lộc uyên
viên
Ai chứ ai hề ai chứ ai
Khuya nay trăng rụng bóng lưng
đồi
Ai mò đáy ngọc ôm trăng lại
Ta đứng bên đồi ngắm trăng trôi
Ai chứ ai hề ai chứ ai
Khuya nay trăng bỏ dấu lưu hài
Cùng trăng ai giỡn trên đồi lạ
Bỏ bóng bên trời chẳng gởi ai
“Tôi là ai ?” như một công án thiền, chỉ khi nào hành giả
bùng vỡ công án thì mới đốn ngộ. Triết gia vĩ đại Nietzsche cũng viết một tác
phẩm thâm viễn Tôi Là Ai ? được Phạm
Công Thiện dịch và ca ngợi là tuyệt tác. Ai là tôi hay tôi là ai vẫn ngân dài
trên nhịp bước đơn hành, độc đạo. Làm sao mà có thể nguôi ngoai cho được khi
mộng thơ, mộng nhạc, mộng tình, mộng cảm vẫn còn tràn lan, lã lướt trên phím
dương cầm âm vọng thánh thót, rộn rã, bùi ngùi dưới mờ ảo vắng lặng trăng
khuya. Ơi những mùa trăng huyền thoại từ bao kiếp trước tương tri, tương ngộ
còn mượt óng long lanh quanh vườn hồn thơ lục diệp im lìm. Tim máu sắt son còn
khẽ đập nhịp chiêm bao náo nhiệt giữa biên thùy, biên giới hữu vô, nghe đảo lộn
tồn lưu rớt xuống muôn ngàn hương tóc biếc miên man ngạt ngào :
Nhìn là sóng mắt xôn xao
Thấy là máu dội ba đào lên tim
Vui là hát lộng rừng sim
Nghêu ngao là bước đi tìm bao la
Ai là ai giữa lòng ta
Tóc bay nhớ những chiều xa những
chiều
Thắp ngày lên đỉnh cô liêu
Nắng đau thắp ngọn đìu hiu cuối
trời
Nhớ là quên đi cuộc đời
Quên là nhớ mãi một người chưa
quen
Khuya khuya vẽ mộng bên đèn
Ngày vang vọng bóng buồn chen bóng
buồn…
Yêu là chẳng dám nói năng
Thương là dụi mắt ngỡ rằng chiêm
bao
Lòng trong rất mực xôn xao
Mặt ngoài rất mực ừ ào như không…
Như không, như có, như mộng như thực là một cái nhìn bảng lảng bằng con
mắt thấu triệt, xuyên suốt thiên thanh vĩnh thúy. Chỉ một cái nhìn trực diện,
nhìn thẳng vào mặt người yêu dấu mà cả vũ trụ, thiên địa, mặt trời, mặt đất,
mặt trăng đều nhìn theo, dường như trông thấy cả vĩnh hằng :
Mặt tôi nhìn thẳng mặt người
Mặt trăng mặt đất mặt trời nhìn
theo
Nhìn ngắm, chiêm ngưỡng đóa kỳ hoa dị thảo là một sự kiện thiêng liêng, ảo
thực cùng tương duyên, tương cảm, tương tức, tương nhập trong tâm hồn chàng thi
sĩ đang rúng động trước một bóng hồng nhan tuyệt sắc giai nhân, ngây ngất mộng
bồi hồi, lai láng ngát phiêu diêu :
Chàng Tú Uyên và nàng Giáng Kiều
Gặp nhau kỳ ảo biết bao nhiêu
Giáng Hương mắt ấy say Từ Thức
Nước suối reo đùa chim hát theo
Có lẽ một lần trong kiếp trước
Hình như tôi ngỏ ý yêu em
Có lẽ ngày xưa trên thượng giới
Hình như ta đã bắt đầu quen…
Ta đứng nhìn nhau ở giữa sân
Tương lai là hiện tại đang gần
Một mai nắng ấm trong xuân mới
Gió sẽ hòa ca theo bước chân
Ngọc ơi ! Có phải trăng là nắng
Có phải mây là nước biển khơi ?
Có phải em bay hai cánh trắng
Bay cùng em mãi mãi là tôi…
Ơi chao ! Dào dạt sóng tình yêu vỗ tràn bờ cỏ hoa tuyệt diệu, đẹp như
chuyện tình lãng mạn Giáng Kiều, Tú Uyên trong huyền thoại lung linh. Tình yêu
muôn thuở, bao giờ cũng ngập đầy say đắm, đam mê, nhưng đối với chàng thi sĩ dị
thường này, tuy nói lời đắm say như vậy nhưng thực ra không phải vậy, bởi tâm
tình hiến dâng cho tất cả mười phương. Đó là thương yêu vô điều kiện, không
chiếm hữu, không đòi hỏi người kia phải hồi âm hay đáp lại điều chi. Chỉ biết mở
rộng lòng ra yêu thương và yêu thương là cảm thấy đầy đủ rồi :
Tôi yêu trăng
Tôi yêu chim, yêu hoa, nắng gió,
bầu trời, dòng sông
Nhưng tôi không đòi trăng phải
yêu tôi
Tôi không đòi chim, hoa, nắng gió
phải yêu tôi
Phải chăng, đó chính là đại bi tâm hay tâm từ vô lượng, phát xuất tận
trong đáy lòng phóng khoáng vô ngần của thi nhân ? Có thể là như thế, có lẽ là
như vậy, nhưng chắc chắn một điều là thi nhân yêu vầng trăng da diết miên
trường, yêu thương đến độ nhập tâm, nhập thần, nhập diệu, chiếu mang mang :
Trăng là sự lưỡng lự của ánh sáng
Cho nên rất dễ yêu
Có một dây đàn dài
Từ cung lòng ta đến cung trăng
kia
Cây độc huyền của riêng ta
Cây độc huyền của riêng ta
Nếu em cũng cảm thấy như thế
Có một dây đàn dài
Từ cung lòng em đến cung trăng
kia
Em sẽ nghe được tiếng nhị huyền
Trăng ơi !
Ta nghe đâu đây tiếng vạn huyền
Ta nghe đâu đây tiếng vạn huyền
Nghe được tiếng vạn huyền, cảm được âm thanh huyền ngân linh diệu của
vầng trăng là đã thấu đạt nguồn nhật nguyệt sơ nguyên, khiến ta nhớ đến Hàn Mặc
Tử, một nhà thơ suốt bình sinh cũng thở cùng trăng, uống cùng trăng dưới sương
mờ vạn cổ. Sương trăng thấp thoáng ngàn núi trăm sông, đồng vọng trong tiếng
đàn văng vẳng Beethoven hòa quyện cùng những cung cầm thâm thiết Chopin,
Mozart, Schubert, Franz List, Johann Strauss, Tchaikovsky… Kỳ diệu làm sao là
âm nhạc, chan chứa xiết bao niềm phấn chấn như thuốc thần tiên chữa hết bệnh ưu
sầu, ưu uất nghẹn hồn câm. Thấm thía nỗi đời oan nghiệt, điêu linh, nên nhiều
khi thi nhân cũng quằn quại trong tiếng kêu trầm thống, chạnh lòng bi đát, bi
thảm sầu xót xa :
Ta ở Đông phương buồn mặt trời
Người ở phương nào sầu có vơi
Mai ta gãy cánh bên khe đá
Một tiếng kêu lên động mấy trời
Ta ở Đông phương buồn một mình
Sầu đi đi lã ngọn chênh vênh
Giữa trưa soi bóng mình lệch bóng
Nửa đêm buồn rụng hết ngón chân…
Ta gọi nắng chiều nắng gọi ta
Ôi buồn khôn xiết nói khôn ra
Một mai quảy gánh đi lên núi
Bóng núi ngày ngày đậm bóng ta
Ta gánh thời gian lên đỉnh núi
Gởi về cho một cõi người xa
Hiểu nhau đời có bao tri kỷ
Mà mỗi khuya khuya nguyệt rụng
tà…
“Hiểu nhau đời có bao tri kỷ” Một câu thơ như một câu hỏi bất ngờ làm sửng
sờ bất cứ kẻ nào lầm lì, chai đá, vô tri nhất. Một câu hỏi làm giật mình khắp
thiên hạ xưa nay. Thật vậy, trong cái cõi người ta chen chúc, nhấp nhô mấy tỷ con
người đang sống lúc nhúc, chập chùng, chung đụng với nhau đây, hỏi thử được có
mấy tâm hồn là tri kỷ, tri âm ? Phạm Phú Hải thì tâm đắc, đồng thanh tương ứng
với thi sĩ Bùi Giáng. Hai người dường như có một niềm đồng giao cách cảm sâu
xa. Ngày Bùi Giáng mất, Phạm Phú Hải bàng hoàng, sửng sốt không thốt nên lời,
chỉ lặng yên cho thơ trào ra bổi hổi :
Nắm xương thi sĩ tan rồi
Ngõ nào tung khỏi luân hồi thì
tung
Nắm xương thi sĩ tan rồi
Ngõ nào ra khỏi luân hồi thì ra
Nghe tin anh chết bàng hoàng
Ngoài này tôi vẫn niết bàn từng
đêm
Tại sao anh lại ngủ quên
Ngoài này tôi chẳng ngủ quên đêm
nào
Thiên tài tự hủy đã quy trần
Quy qua quy lại lại quy hồng
Kinh Phật thuộc làu như lão đó
Ba nghìn thế giới nhét vào trong
Ba nghìn thế giới nhét vào trong lòng, trong hố thẳm tâm tư rồi biến hóa
thành ngôn ngữ thượng thừa thi ca Bùi Giáng, một thi sĩ kiệt xuất đã tiêu hóa Hoa
Nghiêm, Kim Cang, Pháp Hoa đến tận ruột rà, làu thông diệu pháp Thiền tông,
sống mật hạnh qua cung cách cuồng sĩ phóng túng giữa muôn chiều diệu dụng cùng
bọn văn nghệ sĩ ta bà, tự nhiên như nhiên mà chuyển hóa, hóa độ, âm thầm nhiếp
dẫn về cõi tự tại, tự do cho tất cả những tấm lòng đồng điệu phiêu nhiên.
Tuyệt cùng vũ điệu phiêu hốt trên cung bậc ngôn ngữ thi ca Phạm Phú Hải
cũng có nhiều nét tương đồng cùng Bùi Giáng, nhưng đương nhiên vẫn cốt cách, phong
vận riêng biệt, đặc thù của mình qua những phương trời viễn mộng ngao du. Từ
tình đến cảnh, từ tâm đến vật, từ hiện thực đến siêu thực, từ ẩn dụ đến tượng
trưng… bước đi của thi sĩ vừa tưng bừng, hân hoan vừa uất khí, bi tráng, thể
hiện đủ mọi tình huống cuồng say man dại, gầm hú dữ dội lẫn sầu ca ứa lệ ngậm
ngùi… Cuối cùng còn lại là lặng im niêm hoa vi tiếu theo thể lệ gay cấn ly kỳ :
Hãy nhìn hàng chữ này đi
Em ơi ! Có thấy những gì ở sau ?
Hãy nhìn và nhìn thật lâu
Em ơi ! Có thấy ở sau những gì ?
Thấy gì không sau những dòng chữ, dòng thơ cuồn cuộn trôi chảy hàng ngàn
ngàn câu lũ lượt dưới con mắt trần gian ? Điều đó, thi sĩ không bận tâm, chẳng
cần biết tới, chỉ biết rằng mình đang mần thơ và cứ việc mần thơ mà thôi. Làm
thơ là một công việc sáng tạo mãnh liệt như nhà thơ Phạm Công Thiện tuyên bố : “Thơ đâm chồi từ những chủng tự bí ẩn, những
nguyên âm và phụ âm linh thiêng, xuất hiện u huyền từ thai tạng của vũ trụ
nguyên khai và thời gian nguyên tiêu khẽ động. Thơ xuất hiện trước thi sĩ. Thơ
chính là tiếng nói nguyên thủy của con người. Thi sĩ được đẻ ra trong Thơ, nuôi
dưỡng bởi Thơ và trưởng thành trong Thơ. Thi sĩ chỉ được gọi là làm Thơ vì
chính Thơ đã làm ra cái làm của thi sĩ. Cái gọi là thi hứng hay cảm hứng chỉ là
cách nói lên sự xuất hiện linh động, toàn diện của Tiếng Nói uyên nguyên, thế
lực vũ bão của nguyên âm và phụ âm trong lòng thu nhập sự im lặng vào tận trung
tâm điểm ba động của vũ trụ và thế giới, của mặt đất và thiên thanh, của nhân
và phi nhân, của chư thiên và quỷ thần, của biến động lịch sử và chấn động
thiên địa. Thơ là cuộc đại ba lãng của hư không và vũ trụ vậy…”*
Thấy như vậy là quá thượng thừa. Thôi kệ ! Thơ là gì cũng được, miễn sao
mình biết thưởng thức cái hay, cái đẹp, cái tuyệt, cái diệu của hồn thơ là đủ
rồi. Thơ cũng như đạo vậy, đòi hỏi mình phải thấy, phải cảm, phải sống trọn vẹn
bằng tất cả sự chân thành tha thiết nhất, bằng từng hơi thở ra vào sâu thẳm,
nồng nàn với nhịp đập thâm tình, vô ngại từ trái tim thì sự mầu nhiệm sẽ hiện
ra như ánh sáng giữa ban ngày, huy hoàng ngay trước mắt. Chẳng thể nghĩ bàn,
không thể luận nghị chi về thơ, về đạo… mà chỉ cần cảm nhận, trực nhận ngay lập
tức là xong. Đâu cần chi phải dài dòng mổ xẻ tỉ mỉ làm gì. Thôi thì, hãy nghe
chàng thi sĩ tiên tri về cái chết của bản thân hay cái điểm cuối cùng của tất
cả mọi sinh linh đang trôi lênh đênh trên biển đời luân lạc :
Một mai kia khi mạch đời đã cạn
Âm u ơi ! Xin hãy rước tôi về
Hãy dắt tôi bằng đôi tay mềm dịu
Tôi sẽ cười sẽ hát giữa hôn mê
Tiếng hát tôi tà huy sẽ hóa xanh
Sẽ dễ thương như ngọc quý an lành
Tôi sẽ lịm dần đi cùng tiếng hát
Như mây cao dần mỏng giữa bình
minh
Hãy dìu tôi lên khoang thuyền lạ
ấy
Cho tôi được ngồi dựa thẳng sống
lưng
Cho tôi nói với những hồn đồng
hội
Rằng hãy nhìn tôi với ánh mắt êm
đềm…
Âm u ơi ! Tôi xin thâm tạ
Tôi đã tìm ra tiếng nói của thiên
thu
Tiếng khóc sơ sinh hơn một lần
tôi đã
Và ngày mai tôi lại sẽ bắt đầu
Thi sĩ tiên tri mình chết đi và sẽ tái sinh trở lại cõi đời, cho nên
không hề sợ hãi, hoảng hốt chi cả mà còn muốn hát vang lên giữa cơn hôn mê,
thiêm thiếp mệt nhoài. Bài thơ làm năm 1973, lúc 23 tuổi, rồi lặng lẽ âm thầm kéo
dài mãi đến năm 2009, đúng 59 tuổi mới ứng vào xác thân tứ đại của người thi sĩ
tài hoa.
Nhà thơ Trần Đới, điện thoại báo tin cho tôi biết Phạm Phú Hải đã qua
đời ngày 6. 5. 2009 tại Đà Nẵng. Lặng hồn tưởng niệm trong im lìm, tôi để lòng
trôi về miền ký ức xa xăm. Thời gian từ năm 1977 đến 1979 tôi cùng Trần Đới,
họa sĩ Hồ Đắc Ngọc thường hay ghé nhà Phạm Phú Hải chơi, thỉnh thoảng kéo ra
quán cà phê bên sông Hàn, tán dốc, đọc thơ Bùi Giáng và những bài thơ mới của
Phạm Phú Hải. Hồi đó, thi sĩ ưa hút thuốc lá và thích nói chuyện về Thiền, Bùi
Giáng, Phạm Công Thiện, Nietzsche, Krishnamurti…
Rồi từ năm 1980, tôi bỏ xứ, lìa xa quê nhà Đà Nẵng làm một cuộc lữ thiên
di phương Nam
hành ngút mùa lang thang sĩ cho đến tận hôm nay. Tuy vậy, năm nào tôi cũng quy
hồi cố quận một lần vào dịp nghỉ hè, để viếng thăm bạn bè, chư bằng hữu cố tri,
dĩ nhiên trong đó có Phạm Phú Hải, một hồn thơ kỳ dị, bi tráng, trầm hùng. Xúc
động trước cái chết, trước sự ra đi đột ngột, bất ngờ, xin tiễn biệt bạn hiền
một bài thơ ghi lên mây trắng giữa mông mênh :
Chết là chuyển cuộc rong chơi
Sang cung bậc khác rạng ngời tâm linh
Lúc về đây chỉ một mình
Nên đi cũng vậy lặng thinh qua bờ
Bao năm sống động hồn thơ
Cùng rung cảm với từng giờ phút giây
Là con đường mến thương này
Thương mà chẳng vướng như mây nhẹ nhàng
Chan hòa đã đến tịnh quang
Lòng trong trẻo chiếu giữa ngàn suối khe
Tịch không lộng gió trăng kề
Miền thiên thu ấy nằm nghe thấy rằng…
Tâm Nhiên
Thơ Phạm Phú Hải ( chữ nghiêng )
trích trong các thi phẩm :
Một Hôm Núi Khóc ( Nhà xuất bản
Hội Nhà Văn, Hà Nội 2009 )
Gánh Nước Tưới Sông ( Nhà xuất
bản Đà Nẵng, Đà Nẵng 2010 )
* Phạm Công Thiên. Một Đêm Siêu
Hình Với Hàn Mặc Tử. Nhà xuất bản Trần Thi, Hoa Kỳ 2006