Tâm Nhiên

Tâm Nhiên

NHÀ THƠ KIỆT XUẤT NGUYỄN ĐỨC SƠN




Nguyễn Đức Sơn, Tâm Nhiên ( Phương Bối Am, Bảo Lộc 2014 )





Không biết từ đâu ta đến đây
Mang mang trời thẳm đất xanh dày
Lớn lên mang nghiệp làm thi sĩ
Sống điêu linh rồi chết đọa đày

Mấy câu thơ thời tuổi trẻ, lúc mới 23 tuổi ấy đã theo suốt cuộc đời Nguyễn Đức Sơn, một thi sĩ kiệt xuất trên bầu trời văn nghệ Việt Nam hiện đại. Rờn lạnh hoang vu một tâm hồn cô độc, cô liêu khốc liệt, luôn luôn ngún cháy bên trong chiều sâu linh thức một ngọn lửa tịch mịch vô hình, thường trực đứng giữa đôi bờ sống chết giữa đỉnh cao và hố thẳm của tồn sinh bức bách, ngay từ những ngày còn chạy lông bông  đùa rỡn cùng sóng vàng, cát trắng vu vơ dọc mấy hàng cây dương liễu xanh ngút ven bãi biển Ninh Chữ xa mù. Từ đó, từ thuở nhà thơ chào đời năm 1937 ở làng quê Dư Khánh, Thanh Hải, Ninh Thuận đến nay cũng hơn 70 năm trời đằng đẵng trôi qua rồi mà ngọn lửa tịch mịch đó vẫn còn hừng hực, rực ngời như một ngọn lửa thiêng trong lòng người thi sĩ dị thường :

Tôi chỉ có lửa
Và tịch mịch
Trong người

Lửa thơ, lửa mộng, lửa tình yêu, lửa nghệ thuật hay lửa sáng tạo ấy, bao giờ cũng được thi sĩ đốt lên trên dặm ngàn cuộc lữ thênh thang. Năm 1956 lúc 19 tuổi, rời làng quê Dư Khánh, tạm biệt thị xã Phan Rang ra phố biển Nha Trang, theo học trường Trung học Võ Tánh một thời gian, nhà thơ thường trốn học, rong chơi lêu lổng dọc ven bờ biển lồng lộng đầy gió nắng với những ý tưởng mông lung vời vợi, chơi đùa chạy đuổi bắt những vệt nắng xanh vàng rơi tan trong bọt sóng bồng bềnh, lênh láng mộng rong rêu :

Nhiều khi đợi nắng chiều tan
Tôi mông lung nghĩ theo làn mây trôi
Ngày kia nếu ở trên đời
Cha tôi không cưới mẹ tôi bây giờ
Sinh ra tôi có làm thơ
Để điêu linh vẫn như chờ riêng thôi
Những đêm sao sáng đầy trời
Bỗng nhiên tôi khóc trên đồi hư không

“Sinh ra tôi có làm thơ” vì không biết làm chi hơn là làm thơ, làm một cái công việc mà chỉ có những tâm hồn vô cùng nhạy cảm, thường xuyên có sự giao cảm âm thầm thâm sâu uyên viễn, với nhật nguyệt thiên địa càn khôn, với hồn thiên cổ xa xăm diệu vời mới thích thú đam mê  theo công việc duy nhất của đời mình, ấy là cái việc làm thơ làm thẩn đó thôi. Nói như Tuệ Sỹ khi viết về Sơn Núi : “Sinh ra để làm thơ, đó là Định mệnh ?” hay như Phạm Công Thiện, một người bạn thân thiết ngày xưa với Nguyễn Đức Sơn cũng nói : “Làm thơ là hố thẳm xoáy tròn vào cơn bão tố rùng rợn của thơ và chỉ nhìn thấy thơ trên trời, thơ ở dưới đất, thơ trong tim, thơ trong óc não, thơ trong mạch máu, thơ trong hơi thở, thơ trong đời sống, thơ trong cái chết, thơ trong hiện thể, thơ trong vô thể, thơ trong hư vô… Chỉ có thi sĩ mới sống tận bản thân mình, sống phóng tới đằng trước tất cả những khả tính sắp hiện của dân tộc mình.”

Đích thực Nguyễn Đức Sơn là một thi sĩ kỳ tuyệt, một nhà thơ mà  hồn thơ luôn tuôn trào trong huyết quản rạt rào vô hạn. Chàng “lớn lên mang nghiệp làm thi sĩ” nên đi đứng, ngó nhìn bất cứ sự vật trần cảnh, lạnh nóng cao thấp, trời xanh mây trắng, con người, con vật chi chi cũng đều thấy thơ và thơ bàng bạc thấp thoáng, ẩn hiện lung linh, rạo rực xao xuyến ở trong máu trong hồn như vậy, khiến cho ý tình rung lên bổi hổi dâng đầy.

Thấy và nghe bằng trực giác bén nhạy, nhà thơ chợt thấu thị, bùng vỡ ra một điều chi bất ngờ như triết gia Nietzsche thấy “thượng đế đã chết”, Sơn Núi cũng vậy, thấy “thượng đế đi rồi”, chỉ còn đây trên mặt đất là sự có mặt đương nhiên của con người và nhà thơ tự hỏi, tự khai phá về sự hiện hữu của con người, về lẽ sống chết, về lý âm dương tự nhiên của tạo hóa. Tất cả sự hiện hữu này có ý nghĩa chi không hay chẳng có nghĩa lý gì cả, hỡi trời mây vạn đại, thái cổ từ thuở hồng hoang nào lạc dấu mộng sơ nguyên ? :

Lênh đênh thuyền giạt xa miền
Nửa đêm bừng tỉnh man thiên một trời
Trông lên thượng đế đi rồi
Hỏi mây thái cổ con người vân vi
Lối mòn cỏ mộ xanh rì
Ngoài ra kìa chẳng có gì nữa sao
Đảo buồn thổi gió lao xao
Ngàn xưa còn tiếng thì thào biển khuya

Biển tàn khuya gõ nhịp đi về, lắng nghe một điều chi mãnh liệt trong trái tim đầy nhiệt huyết, luôn luôn mở rộng lòng ra để đón gió thanh tân từ ngàn phương lồng lộng… Sống giữa chợ đời đông đảo náo nhiệt, bắt buộc người ta phải biết suy ngẫm, trầm tư để phân biệt đúng sai, phải quấy này nọ, nhưng khi đứng trước đại dương mênh mông, rộng rãi thì điều đó không còn cần thiết nữa. Cứ thoải mái tha hồ vô tư với từng mạch luồng hơi thở, mở toang từng buồng tim thớ phổi ra mà thở cho thật nhẹ nhàng, sảng khoái, thẳm sâu như thi sĩ nhiều lần Một Mình Nằm Thở Đủ Kiểu Trên Bờ Biển :

Đầu tiên tôi thở cái phào
Bao nhiêu phiền não như trào ra theo
Nín hơi tôi thở cái phèo
Bao nhiêu mộng ảo bay vèo hư không
Sướng nên tôi thở phập phồng
Mây bay gió thổi trời hồng muôn năm
Mai sau này chỗ tôi nằm
Sao rơi lạnh lẽo âm thầm biển ru

Nhà văn Võ Phiến rất tâm đắc bài thơ này, còn thiền sư Nhất Hạnh suốt bình sinh du hóa khắp nơi trên thế giới cũng chỉ xiển dương cái sự việc thở ra thở vào một cách vững chãi, thảnh thơi như vậy mà thôi. Biển sóng ru êm ái rào rạt như tiếng nhạc mơ hồ xào xạc từ xa xôi đồng vọng lại, nghe dạt dào, xao động như cung đàn Mozart, Schubert, Chopin, Beethoven… Nắng chiều tà nhòa nhạt trong sóng nắng xa xăm, nhấp nhô bao mộng đời óng ánh nỗi niềm chi không thể thốt nên lời để Một Mình Đuổi Theo Mây Bạc Bay Trên Biển :

Biển chiều còn lại mình tôi
Đuổi theo mây bạc giữa trời bao la
Thủy triều chợt rút ra xa
Bóng thanh xuân rụng ác tà sau lưng

Rừng biển tà huy vi vút từng mảng khói lam chiều phiêu hốt. Sau lưng bỏ lại dấu thanh xuân khuất bóng, khi thi sĩ quyết định dời gót lên đường vào phố thị Sài Gòn, tiếp tục chuyện sách vở, học hành ở Đại học Văn Khoa. Tưởng là mở ra một chân trời mới, một niềm hy vọng phong quang xán lạn, nhưng bất ngờ trở chứng, tính khinh bạc ngông cuồng bộc phát đột ngột, mới học vài ba năm chưa tốt nghiệp thì đùng một cái chàng bỏ ngang dang dở nửa chừng, để lạnh lùng đứng dậy quay về thế giới độc đạo cô liêu của riêng mình.

Tịch nhiên trầm lặng đối mặt với nỗi cô đơn rờn lạnh quạnh hiu, với nỗi sầu vạn đại như thi sĩ Huy Cận : “Một chiếc linh hồn nhỏ. Mang mang thiên cổ sầu.” Sầu thiên cổ mang mang quằn quại, nhói buốt như nhà thơ Trần Tử Ngang một lần kia, tình cờ đi ngang qua nghĩa địa, thấy hàng trăm nấm mộ ven đường mà bàng hoàng, cảm thán xót xa : “Ai người trước đã qua. Ai người sau chưa tới. Nghĩ trời đất vô cùng. Một mình tuôn giọt lệ.” Giọt lệ thi nhân nhỏ xuống nấm mồ nhân thế có ý nghĩa gì trên cuộc về của chúng ta ?

Cuộc đi hay cuộc về là một cách nói văn vẻ cho có đầu có đuôi thế thôi, chứ thực ra chẳng có cuộc nào cả, ngoài cuộc sống đang diễn ra trước mắt sờ sờ, ngay trong từng hơi thở ra vào sinh động hằng ngày đây thôi. Cuộc sống thực tế, thực tại hiện tiền ngay đây trên mặt đất này là đã đủ đầy hoan lạc, vô cùng hạnh phúc rồi, đừng có vọng tưởng, mong cầu một thế giới nào khác ở đâu đó trên trời với cảnh thiên đàng, cực lạc mơ hồ… Với thi nhân, sống thì phải sống mãnh liệt, dốc hết sức bình sinh ra mà sống một lần thấu triệt thiên thu, siêu thần bạt thánh, cho nên hãy vận dụng thập thành công lực, đứng bật dậy nhảy múa, hát ca sôi nổi, nhập cuộc tuôn trào lai láng theo mạch đời trôi chảy đầy mới lạ mới mẻ, đầy đam mê xuất thần say sưa ngây ngất :

Hãy đốt đuốc hằng đêm trên trái đất
Cho núi rừng và biển thẳm lung linh
Các em làm sáng rực cả vô minh
Để anh có một nguồn vui bất tuyệt

Hãy đọc kỹ hồn anh trong bóng nguyệt
Các em vừa mười bốn với mười lăm
Bài học gần nhưng cũng rất xa xăm
Các em hãy bắt đầu yêu bụi cát

Bởi trái đất là niềm kiêu hãnh nhất
Dù xe đời lăn hố thẳm ngửa nghiêng
Đã chết rồi bao ngưỡng vọng thiêng liêng
Dù khuya vắng trời muôn sao lấp lánh

Chúng đã dựng lên bao nhiêu thần thánh
Ung thúi rồi dưỡng chất của chiêm bao
Đêm mới về niềm hoan lạc xôn xao
Ta đốt đuốc chạy dài trên trái đất

Đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất là bước đi muôn chiều tiêu dao của thi sĩ thiên tài Phạm Công Thiện, còn Nguyễn Đức Sơn nhà thơ xuất chúng thì đốt đuốc lên chạy dài trên trái đất thênh thang. Đi nghêu ngao hay chạy rộn ràng cũng cùng một thể điệu phiêu nhiên chuếnh choáng, hân hoan tiếp diễn lồng lộng, bồng bềnh trên cánh gió ngàn xuân :

Một đêm sao ở trên rừng
Đua nhau rụng xuống chào mừng nhân gian
Hồn tôi cây cối liên hoan
Rưng rưng tôi thấy trăm ngàn ước mơ
Tuổi vàng suối mộng trời thơ
Lớn lên tôi chết trên bờ hư không

Sống rạt rào, hào hứng cho đã cái đời chơi ngông nghệ sĩ rồi bất thình lình nỗi chết hiện về ám ảnh khôn nguôi, khiến chàng im lặng, chẳng biết làm sao hơn là ngắm nước chảy mây trôi trước niềm đau chợt xảy đến bất ngờ. Chỉ cần chứng kiến sự luân lưu trôi chảy là đủ rồi, biết thưởng thức vẻ đẹp luôn luôn thay đổi, bởi muôn đời sự đổi thay, biến chuyển là chân lý hiển nhiên.

Ý thức trực tiếp được điều đơn giản đó, thi nhân chấp nhận niềm đau và can đảm, lẫm liệt thổi bừng lên ngọn lửa tim hồn, đốt cháy thiêu rụi cả thành vách bịt bùng, khủng khiếp của hư vô để hiển lộ ra cái tinh túy, tinh hoa, ngay trong sự đổ vỡ, dở dang, vẫn còn đó vầng trăng bát ngát, vầng trăng tâm linh xanh biếc thiên thu là nguồn cảm hứng sáng tạo, vô cùng đắm đuối của bậc tài hoa Thi Sĩ :

Khi ý thức mặt đất này dang dở
Ta vội chìm trong bóng nguyệt mang mang
Khi chấp nhận ngàn lần trong đổ vỡ
Ta một hồn đắm đuối giữa tan hoang

Phản kháng, nổi loạn muốn chuyển hóa là cá tính vốn có sẵn trong dòng máu nhiệt liệt của nhà thơ luôn luôn tìm tòi mới lạ, khát khao tuyệt đối, khao khát tự do từ thời còn nhỏ tuổi. Các vấn đề hiện sinh, tình yêu, tính dục là những vấn đề cháy bỏng nóng hổi mà tuổi trẻ rất băn khoăn, thắc mắc và nhà thơ trải lòng ra mà chia sẻ một cách tâm huyết rằng, các em hãy mạnh mẽ, hùng tráng mỉm cười đứng lên, tự nhận trách nhiệm với chính mình, mãnh liệt hiên ngang sống tự do, tự giải thoát mình ra khỏi những bóng ma thượng đế, thánh thần vớ vẩn đang trú ẩn đâu đó ở trên cao, vô tăm tích kia.

Tư tưởng Nguyễn Đức Sơn tương ứng với tư tưởng đạo sư Krishnamurti : “Không có thượng đế nào khác hơn con người trở thành chí thiện. Không có một thần uy nào ở ngoài sai khiến được con người. Tuyệt nhiên không có thiên đường, địa ngục nào khác hơn những cái do chính con người tạo ra. Cho nên con người chỉ có trách nhiệm đối với mình, chứ không nên nô lệ, lệ thuộc vào bất cứ ai khác, bất kỳ một kẻ nào khác.” Vâng, đúng là như vậy ! Hãy kiêu hùng dũng khí lao đầu vào con đường không lộ, vô mục đích với tư thế tự tin tự lực, vững mạnh vững vàng :

Các em hãy đi tuần quanh trái đất
Ôi tuổi vàng mười sáu với mười lăm
Phải hoàn thành sứ mệnh một trăm năm
Trước khi biến tan vào trong bụi cát

Nắm tay cất đại đồng ca bát ngát
Ở trên đầu thần thánh với âm binh
Mấy ngàn năm nguồn cội của điêu linh
Chúng lảm nhảm an toàn sau bí tích

Kiêu dũng nhất là con đường không đích
Ta cắm đầu lao thẳng tới hư vô
Ôi mộng đời cháy sém cỏ cây khô
Trăng thế kỷ rừng Đông phương tỏa chiếu

Chịu chơi nhất là kẻ lên đường không mục đích, không hy vọng, chẳng mong cầu điều chi cả mà quăng ném trọn hồn mình vào cái thực tại đang là. Trên tinh thần đó, chàng bước đi xuôi ngược suốt muôn chiều phiêu bạt, phiêu lưu, lang thang khắp vùng Phan Rang, Nha Trang, Đơn Dương, Đà Lạt, lưu linh lạc địa xuống miền Bảo Lộc, Đồng Nai, Bình Dương rồi tấp về Biên Hòa, Thủ Đức, Sài Gòn tơi tả…

Nhà thơ nhào lộn vào cuộc tồn sinh, giáp mặt trăm bề nghìn phía, từng băng qua, lội nát mọi chân trời triết lý Đông Tây kim cổ, ngưỡng mộ triết gia Héraclite, tôn sùng văn hào Dostoevsky và nhất là rất thích ưa thưởng thức những hương ngàn cỏ nội, kỳ hoa dị thảo của thục nữ mười phương như có lần thi sĩ bày tỏ rõ ràng : “Ngưỡng mộ Héraclite, Dostoevsky và Simone Weil. Yêu chim chóc và cỏ cây một cách lạ lùng nhưng cũng quá cần ngửi mùi quần áo lót của đàn bà và con gái, cần khẩn thiết và triền miên cho tới ngày chui xuống lỗ…” Chao ơi ! Mới nghe nhà thơ nói thật lòng, thật dạ một cách thiệt tình, không giấu giếm như thế, khiến ai cũng phải bật cười thú vị. Thú vị như cách nhìn nghệ thuật mỹ cảm, tinh tế, bằng sự rung động cảm khoái, rất mực rộn rã tiếng cười hoan lạc chuyện gái trai :

Trên rừng ấy một mình anh hái trái
Đang mơ màng trông thấy quá nhiều chim
Bên mương vắng em vén quần sắp đái
Anh thấy càn khôn rụng xuống trong tim

Không biết trong mơ em còn mắc cỡ
Một đêm vàng rúng động giấc thanh tân
Dưới chăn chiếu thiên nhai lồ lộ mở
Em đái dầm ướt sẫm cả trần gian

Giữa khuya đó em bàng hoàng tỉnh dậy
Cả mặt hồ tràn ngập ánh sao băng
Khắp trong người em máu nóng đang căng
Xao xuyến quá em tuột quần xuống đái

Bắt đầu thở là bắt đầu hạnh phúc
Không bao giờ anh nói dối em đâu
Ôi bất động ngàn năm thân gỗ mục
Cửa tồn sinh em hãy mở cho lâu

Tất cả chúng ta ra đời được là nhờ cửa tồn sinh kỳ diệu đó, cái cửa mình của người phụ nữ mà Mật tông Tây Tạng ví như đóa hoa sen thơm ngát, mọc lên từ đáy ao hồ đầy bùn lầy nhầy nhụa, làm tỏa hương thanh khiết cho đất trời. Bất cứ bậc giáo chủ, hoàng đế, thượng sĩ, vĩ nhân nào trên mặt đất trần trụi này thì cũng đều khai sinh ra từ cái nụ liên hoa mầu nhiệm đó mà thôi. Ơi hương đời luôn luôn mới lạ nhiệm mầu ấy, thi nhân tha hồ thưởng thức, rực nồng hơi ấm âm dương, bay phưỡng phất đậm đà hòa quyện giữa nhật nguyệt phập phồng, hoan lạc ngát lâng lâng :

Đây lứa cỏ của mùa trăng thứ nhất
Đưa anh vào trong cõi mộng xa xăm
Giọt tinh huyết ngàn năm sau chưa mất
Rừng đông phương mù mịt dấu em nằm

Anh mường tượng ngày kia anh chứng ngộ
Đang cởi quần hai mắt lệ rưng rưng
Ôi quá biết tử sinh đều thống khổ
Ở trên giường em vẫn nẩy bưng bưng

Thở hổn hển là bắt đầu sướng nhất
Cỏ cây nằm im bẹp giữa hôn mê
Giường tre cũng rung rinh như trái đất
Nên suốt đời tôi thích ở nhà quê  

Thà ở nhà quê, thà làm thằng chăn trâu mộc mạc hoang dã, sống thiệt tình với chính bản chất của mình như Alexis Zorba tha hồ nhảy múa, đùa chơi cùng toàn thể mộng đời với xiết bao cô em mọi nhỏ, thẹn thò thôn nữ bờ mương, xiết bao hồng nhan thục nữ yểu điệu tuyệt trần, diễm huyền tiên nữ, thiên hương quốc sắc giai nhân, thuyền quyên tuyệt mỹ nhu mì… Rồi đôi khi rảnh rỗi, ngồi ngẫm nghĩ cái gì đó của người con gái mà hứng khởi trầm trồ :

Cái lỗ của em
Cùng với cái lỗ huyệt
Mở ra hai đầu sinh tử bất tuyệt

Biết quán chiếu về cái lỗ tối linh có từ thượng cổ ấy cùng với cái lỗ huyệt, tức là quán chiếu triệt để vấn đề sinh tử trọng đại, còn hơn là chễm chệ, phì nộm nặng nề ngồi bệ vệ trên ghế nệm sa lông, trong tường cao cổng kín phòng máy lạnh, bày đặt huênh hoang hội thảo quốc gia này đến hội thảo quốc tế nọ, để luận bàn về chiến tranh hay hòa bình, tình yêu hay tính dục, duy tâm hay duy vật, Phật hay Chúa, tà hay chánh, thánh hay phàm, thiện hay ác, hữu hay vô…  bất tận không ngừng :

Luận về không hay có
Đâu bằng nhìn cái mồng của em
Sắp ló

Cái mồng là ẩn ngữ gay cấn ly kỳ, lung linh chập chờn không rõ hình dạng, thoáng ẩn thoáng hiện trong cách sử dụng tài tình nghệ thuật ngôn ngữ của thi sĩ. Tuy không  nói trắng ra nhưng chúng ta chắc cũng biết là cái gì rồi. Đó là cái trung tâm cơn lốc  của nhân sinh, chỉ duy nhất một cái đó thôi mà toàn thể nhân loại từ cổ chí kim đều chìm đắm, đam mê đến độ túy sinh mộng tử. Bao nhiêu triều đại hưng phế, bao nhiêu công hầu khanh tướng, xương chất thành núi, máu chảy thành sông ướt đẫm dòng dòng sử lịch cũng vì muốn chiếm hữu, giành giật, hưởng thụ, thỏa mãn cái đó mà thôi.

Rồi biết bao đạo lý, triết lý, thi ca, nghệ thuật cũng phát nguồn cảm hứng từ cái đó mà ra. Thật vậy, nhìn từ một bình diện khác thì cái đó là linh vật, vật thiêng, là thần Vệ Nữ như người dân Ấn Độ thờ phượng trong các đền điện tôn nghiêm, hay ở thánh địa Mỹ Sơn, Việt Nam cũng thờ linh vật Linga ấy. Có lẽ xưa nay chưa từng có ai trên thế giới phát hiện ra một chân lý đơn sơ giản dị mà khổng lồ như Sơn Núi đã phát hiện độc đáo Vậy Thôi Chứ Còn Đòi Cái Gì Nữa :

Mộ
Một nấm
Hai núm

Chỉ cần sáu từ ngắn gọn thôi, thi nhân đã lột tả toàn diện, nói lên được toàn thể sự sống và sự chết muôn đời của kiếp nhân sinh, trên quả địa cầu tròn đang quay lông lốc giữa không gian. Chàng thi sĩ xuất hiện trên diễn đàn văn nghệ như một hiện tượng lạ, một quái kiệt thiên lôi sấm sét, có cách ăn nói lạ lùng bộc trực, khinh bạc khác thường, bàng bạc ngát hương tình tính dục, rung động hòa âm đậm đà chất lửa Linga cháy nồng nàn hơi ấm âm dương.

Bằng cái giọng ngang tàng quyết liệt, gây ấn tượng nổi bật vì chuyên gây hấn, tấn công những bọn côn đồ khát máu, bọn người ngợm đội lốt tôn giáo, văn nghệ để làm những chuyện xằng bậy, gian trá quỷ quyệt, lợi dụng rủ rê mê tín, bắt người ta thờ lạy đấng thượng đế tối cao, bậc thần thánh tối hậu ở đâu đâu mù mịt xa lắc tận trên chín tầng trời, gieo rắc bao nhiêu nỗi sợ hãi cho rất nhiều người nhẹ dạ. Làm gì có những cảnh giới thiên đường, tây phương cực lạc ở trên đó. Có lần bất nhẫn điên tiết, chàng gầm lên la hét thật to :

Tôi định một ngày nào đó
Thật thảnh thơi
Leo lên trời
Ỉa

Chán ngấy muốn lộn mửa cái cảnh ngoài miệng thì nói bô bô đủ thứ chuyện thiện lành thánh thiện, bác ái vị tha, lương tâm đạo đức nhưng bên trong tâm địa thì hắc ám đầy hiểm ác, gian manh kiểu Hoạn Thư : “Mặt ngoài thơn thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người không dao.” Ngao ngán loại người ngụy quân tử như Nhạc Bất Quần nói một đường làm một ngã, đeo mặt nạ giả danh pháp sư, nhà truyền giáo, chuyên môn lừa đảo tinh vi, quỷ quái vẫn còn hoạt động rộn ràng, phát huy môn phái, mở rộng nhà ma cửa quỷ, hoằng dương tà đạo loạn xà ngầu bát nháo lao xao  :

Người ta giấu cái đạo
Trong hũ gạo
Trời ơi !

Đó là một sự thật cay đắng, bất đắc dĩ thi sĩ phải nói ra, khiến cho bọn đạo đức giả tức hộc máu, không biết làm chi hơn gán ghép chàng là kẻ phá hoại, báng bổ thần thánh, tên du côn hoang đàng, ngạo mạn, đồ man di mọi rợ, điên khùng… Chúng không biết rằng, trong thơ văn chàng trái lại, chứa chan tràn đầy tính chất trữ tình lãng mạn, ăm ắp niềm yêu mến thiên nhiên, yêu thương nhân loại, mở ra bầu không khí trong lành khoáng đãng, tự do hít thở, bằng cái giọng rất tân kỳ mới lạ quá đỗi đặc biệt, quyến rũ một cách bất ngờ. Cái giọng thơ phiêu bồng, độc đáo xưa nay chưa từng thấy. Thơ văn chàng bắt đầu đăng tải nhiều trên các tạp chí Khởi Hành, Bách Khoa, Sáng Tạo, Thời Tập, Thời Nay, Trình Bày, Đối Diện, Mai, Văn, Văn Nghệ, Thế Kỷ Hai Mươi…

Thời kỳ đó là vào khoảng năm 1960 đến 1975 sinh hoạt văn nghệ Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ đang chuyển mình thăng hoa, phát triển rầm rộ về mọi mặt. Hàng ngàn tác phẩm thơ văn, nhạc họa, dịch thuật đủ thể loại kim cổ Đông Tây thi nhau xuất bản, ấn hành mạnh mẽ. Năm 1965 Tạp chí sáng tác văn nghệ Mặt Đất do Nguyễn Đức Sơn chủ trương ra đời, mang đến một luồng gió mới lạ thổi qua mặt đất, gây nên một trận bão hào hứng, xôn xao trong giới văn nghệ sĩ, nhưng rất tiếc chỉ ấn hành được dăm bảy số rồi nghỉ vì nhiều lý do ngoài ý muốn. Buồn bã không còn đất dụng võ, tung hoành ngang dọc trên mặt trận văn chương nữa, thi sĩ buông mình xuống dòng đời trôi lênh đênh như nhánh rong phiêu bạt qua những gập ghềnh suối thác, miên man sáng tạo trong cô đơn cố hữu thầm thì giữa thiên địa Mang Mang :

Mang mang trời đất tôi đi
Rừng im suối lạnh thiếu gì tịch liêu
Tôi về lắng cả buổi chiều
Nghe chim ăn trái rụng đều như kinh
Còn một mình hỏi một mình
Có chăng hồn với dáng hình là hai
Từng trưa nằm nghĩ đất dài
Phiêu phiêu nhẹ cái hình hài bay lên
Mù sương âm vọng tiếng huyền
Có con dơi lạ bay trên cõi đời
Sau xưa mắt đã ngợp rồi
Tôi nghe tôi chết giữa trời thinh không

Sống và chết cùng song hành bước đi chênh vênh bên vực thẳm tồn sinh. Thấm thía rợn cả người trước sự tàn bạo, vô nhân đạo của cuộc chiến tranh tương tàn tương sát đang diễn ra khốc liệt trên khắp xứ sở Việt Nam, nhà thơ tìm đủ mọi cách để không bị nhà cầm quyền bắt đi lính ra chiến trường, bắn giết dã man, nên thường tá túc trong các chùa chiền, liêu vắng hay các xóm nhà lá tồi tàn xơ xác.

Hát khúc giang hồ ca, bạt mạng lên rừng xuống biển, ngược xuôi trăm miền rồi Cát Bụi Mệt Mỏi tấp về Bình Dương, dạy học tiếng Anh ở mấy trường tư thục Bồ Đề, từ năm 1965 đến 1967. Thời gian ở đây, bất ngờ kỳ ngộ Nguyễn Thị Phượng trong chùa Tây Tạng, một nàng thơ diễm tuyệt, khiến cho chàng thi sĩ rúng động cả thần hồn, rồi xuất cốt thành tác phẩm Đêm Nguyệt Động đầy chất thơ mộng, gồm 17 bài thơ trữ tình mỹ lệ để đánh dấu năm 17 tuổi của người tình vĩnh cửu, yểu điệu dáng thơ gầy thục nữ đoan trang :

Năm mười sáu em bắt đầu thấy rát
Khắp trong người rờn rợn máu đang căng
Hồn hoa đã động tình đêm thứ nhất
Em đến nằm phơi mộng giữa vườn trăng…

Anh quỳ xuống dưới vòm trời khao khát
Dù thật lòng em chưa muốn cho xem
Đời anh đó đâu lớn bằng hạt cát
Đã vô tình vương dưới gót chân em

Em về em hiện, em đến như tiếng sét ái tình làm bùng vỡ tâm thức, rực ngời lửa âm dương cháy đỏ, cho nên đám cưới được tổ chức tức thì ở ngay trong chùa Tây Tạng, lúc chàng vừa đúng 30 tuổi. Buổi tiệc chay đám cưới đó, có Phạm Công Thiện, khoa trưởng Văn khoa Đại học Vạn Hạnh, nhà văn Bửu Ý, nhà thơ Nguyễn Miên Thảo và Thanh Tuệ, giám đốc nhà xuất bản An Tiêm tham dự. Từ đó đến nay Sơn Núi vẫn tiếp tục ăn chay trường vì một lý do dễ hiểu là thương yêu những con chim, con cá, những con gà, con vịt, con hươu, con nai, con dê, con khỉ, con heo, con chó, con bò, con trâu… Không nỡ lòng nào ăn tươi nuốt sống, cắt cổ mổ bụng uống máu các loài động vật rất thân thiết, gần gũi ấy được.

Thương yêu đến độ như thế là nhân đạo vô cùng vô tận rồi, yêu thương từng con cò, con hạc, con ngỗng… huống chi là con người phải không ? Không thể nào không rùng mình ớn lạnh, tê buốt cả thịt da, khi đi ngang qua những đường phố ồn ào náo nhiệt, tràn ngập quán nhậu vỉa hè, thấy nam nữ già trẻ bu quanh lò sát sinh ăn nuốt nhai nghiến ngấu ruột gan phèo phổi mà chạnh xót xa đau :

Những quán nhậu
Cứ bu quanh lò sát sinh
Thừa hưởng ruột gan phèo phổi
Đâu đến nỗi
Của mình

Tình cảm tự nhiên, tính thuần thiện, thiên lương rất đỗi từ ái, lân mẫn của thi nhân là vậy. Cuộc lữ Du Sĩ Ca qua mọi chốn miền duyên hải, ngút ngàn biển xanh, cát trắng rồi tưng bừng lên rừng cao rú thẳm xa xăm, có lúc sung sướng, thăng hoa phấn chấn ngất trời, rồi nhiều lúc cũng bầm dập tiêu điều, điêu đứng những nẻo đời gian nan, bão bùng lốc xoáy lăn quay. Xoay xuở đủ đường trước bao nhiêu chuyện đa đoan, thúc bách trăm chiều, tự đẩy mình vào những chốn khốn cùng, túng quẩn nhất. Có lần xui xẻo bị bắt giam vào nhà lao vì trốn quân dịch, không chịu đi lính ra chiến trường cầm súng bắn giết đồng loại. Nằm co ro, tê tái trong trại giam chật chội, ngột ngạt giữa trưa nồng oi bức, bưng chén cơm tù lên, thi nhân vẫn trân trọng sự sống, cảm tạ đất trời vô lượng bao dung :

Mỗi ngày cúi xuống hạt cơm
Anh nghe thấm một mùi thơm lạ lùng
Cắn đôi hạt muối thường dùng
Biết ơn trời đất vô cùng em ơi !
Trăm năm ta sống một đời
Ngàn năm gởi lại chút lời thở than

Ai đã từng lâm vào cái cảnh tù ngục, đọa đày thì mới thấy thật là kinh rợn, khủng khiếp như thân thể bị ghẻ lở tróc da đầy mình, bệnh tật, bệnh hoạn không thuốc thang, nằm bầm dập não nề thê thảm, chẳng có một người nào chăm sóc thì bất cứ ai ai cũng cảm thấy xót thân tủi phận, căm hờn phẫn nộ bọn cầm quyền độc tài tàn bạo, thế nhưng ở đây, thái độ ứng xử lại trái ngược hoàn toàn, chàng thi sĩ bị đọa đày nhốt trong tù như thế mà không oán giận, vẫn điềm nhiên bày tỏ những lời tri ân chân thành, cảm ơn tật bệnh ghẻ lở, cảm tạ sự tăm tối vô minh, Cảm Ơn Tù :

Cảm ơn ghẻ mọc đầy mình
Cảm ơn bệnh hoạn chung tình với ta
Cám ơn dái tróc lòi  da
Cảm ơn tù dẫn tôi ra khỏi đời
Cảm ơn tất cả xa rồi
Hôm nay tôi thấy tôi ngồi bên tôi

Cảm tạ tất cả sự nghiệt ngã của cuộc đời vì nhờ đó mà nhà thơ mới có cơ hội đối mặt với bản thân, thấy lại cái mặt mũi xưa nay của chính mình. Ơi chao ! Thật là một cái nhìn sáng tạo tân kỳ, chỉ có những tâm hồn thượng đẳng, hoằng đại mới thấy được như thế, biểu lộ một cái thấy siêu việt, phi thường, ngay cả trong ngục tù tối tăm đi chăng nữa, họ cũng chuyển thành một dịp may hy hữu, vẫn thấy xiết bao nguồn cảm hứng sáng tạo. Ngồi trong song cửa sắt, nhà thơ lặng lẽ gởi hồn về chốn miền viễn mộng Bình Dương, nơi có bà con chòm xóm và người yêu dấu cũ đang chờ đợi buồn tênh :

Bên trong khung cửa sắt này
Anh ngồi đếm lại từng ngày xót xa
Đêm qua mơ trốn về nhà
Ôm em ngủ suốt canh tà với trăng

Có ai về được Bình Dương
Hỏi thăm chòm xóm có thường hay không ?
Đêm đêm bom tưới đầy đồng
Những oan hồn cũ bế bồng đi đâu ?

Sầu áo não, nghe se sắt lạnh máu tim hồng. Sống trong xã hội thời loạn ly, bị vây khổn, ngột ngạt, đầy âu lo khó thở, nhà thơ mơ ước ngày mai kia, tất cả nhà tù ngục, trại giam nhốt con người đều bị chôn vùi dưới mộ địa, không còn tồn tại trên mặt đất thân yêu này nữa :

Mai kia dù chế độ nào
Một trăm một triệu phong trào đi qua
Làm sao tất cả chúng ta
Chỉ còn trông thấy mồ ma nhà tù
Nằm trên trái đất vi vu
Bao la trời biển tiếp thu tình người

Tắm mình trong mưa nắng đẫm ướt phong trần, sống thường trực trên tinh thần cảnh giác cao độ, bức bách vây khổn bốn bề trăm phía giữa thời buổi loạn ly chinh chiến, bom đạn nổ tứ tung, đe dọa mạng sống hàng ngày như vậy nhưng nhà thơ vẫn thở đều đặn bởi hơi ấm rực ngời của ngọn lửa tịch mịch sáng tạo luôn luôn ngún cháy giữa cuộc lữ phiêu linh.

Chính vì thế mà các tác phẩm thi ca tha thiết, nồng nàn, thấm đẫm ruột rà, tim phổi, máu lệ lần lượt ra đời như Bọt Nước, Hoa Cô Độc, Lời Ru, Đêm Nguyệt Động, Vọng, Mộng Du Trên Đỉnh Mùa Xuân, Tịnh Khẩu, Du Sĩ Ca… và những tập truyện ngắn sâu sắc, hàm súc, rung động lòng người, phản ảnh nhiều mặt của đời sống chung quanh như Cát Bụi Mệt Mỏi, Cái Chuồng Khỉ, Xóm Chuồng Ngựa, Ngồi Đợi Ngoài Hành Lang với tập tiểu luận duy nhất Mười Lăm Năm Thi Ca Miền Nam chưa kịp xuất bản thì xảy ra biến cố năm 1975.

Sau biến cố vô thường dâu bể ấy, trong khi hàng ngàn người bị đi học tập cải tạo, đi lao động kinh tế mới, hàng triệu người vượt biên giới trùng dương ra nước ngoài thì Nguyễn Đức Sơn đơn độc, lặng lẽ rời Sài Gòn đưa vợ con lên núi rừng Đại Lào ở Bảo Lộc, Lâm Đồng, sống trên đồi Phương Bối Am, nơi chốn cũ ngày xưa, thiền sư Nhất Hạnh đã khai phá dựng lập từ năm 1958. Bây giờ trơ trọi ngọn đồi hoang vu cây cỏ dại mọc um tùm, chỉ còn một cái hồ chứa nước bằng xi măng hình chữ nhật cũng đủ cho cả gia đình thi nhân tạm trú trong đó. Có đến tận nơi chứng kiến cảnh đời hiu hắt, khắc nghiệt của thi sĩ thì mới hiểu nổi hai câu thơ tiên tri đã viết tự bao giờ : “Sinh ra tôi có làm thơ. Để điêu linh vẫn như chờ riêng thôi.” Vâng, điêu linh trầm thống vẫn bám theo đọa đày, vây khổn một hồn thơ tơi tả rã rời :

Buổi tối đó bầu trời như muốn ngã
Tôi một mình ôm lấy bóng trăng tan
Mây thấp quá và hồn tôi tối quá
Không chỗ nào thở được dưới trần gian

Ơi chao ! Dù sống trong tận cùng thống khổ tang thương, nhưng thi nhân vẫn chịu đựng một cách nhẫn nhục phi thường, tự biến lòng mình thành đại dương sâu thẳm, chấp nhận, chất chứa và tiêu dung tất cả mọi thứ cặn bã của thế gian trút xuống, giống như họa sĩ Van Gogh : “Đau khổ không than van là bài học duy nhất chúng ta phải học trong cuộc đời này.” Sơn Núi cũng vậy, chưa bao giờ nghe chàng than thở, oán hờn chi cả mà cứ lầm lũi sớm chiều bằng chiếc xe đạp cọc cạch vào rừng kiếm củi khô chở xuống chợ Blao đổi lấy gạo muối đem về. Thế đó, một cuộc đời thanh bạch, hết sức giản dị đơn sơ, rất bình thường chẳng có gì cả, ngoài một hồn thơ vẫn trào dâng bao nỗi niềm chi thao thức, nhức nhối quá diêu mang :

Về đây say với trăng ngàn
Phiêu diêu hồn ngập giấc vàng đó em
Trăm năm bóng lửng qua thềm
Nhớ nhung gì buổi chiều êm biến rồi
Mai kia tắt lửa mặt trời
Chuyện linh hồn với luân hồi có không
Thái hư chừng sắp chuyển vòng
Đại dương tràn kéo núi đồng tan đi
Chúng ta giờ ước mong gì
Văn minh gởi cát bụi về mai sau

Thấu suốt tương lai như thi sĩ tiên tri thấu thị Rimbaud đã từng thấy, ngày mai đây “sa mạc lan dần” trên mặt đất hoang vu, thấy rõ tận tường cõi người ta giữa thời đại văn minh cơ khí đang dần dần máy móc hóa con người, bọn hãnh tiến trên toàn thế giới đang muốn biến con người thành những công cụ để sử dụng theo ý đồ độc tài nào đó, thi nhân vất bỏ sạch sành sanh hết thảy mọi sự xuống đống rác thành phố khô kiệt, đơn độc quay về với thiên nhiên rừng núi, cúi xuống quỳ hôn lòng đất mẹ, hít thở cùng mây trắng, trăng ngàn, sương khói, cỏ hoa và đốt lên ngọn lửa tịch mịch quanh đây. Ngày ngày lủi thủi cuốc đất, làm rẫy trồng thông, gieo hạt giống mầm chồi xanh tươi mới. Thế rồi hàng ngàn cây thông đã phủ kín triền đồi thành một cánh rừng thông xanh rợp ngời bóng mát để cho hoa cỏ, bướm vàng hát ca lặng lẽ vô thanh giữa đất trời, tự tại một mình một cõi tự do  :

Được làm một sinh vật tự do
Cho đến chết
Tôi quyết không lết
Cũng không bò
Như hầu hết đồng loại hai cẳng
Cứ suy tư nhưng cứ giống chó
Đó đó
Đó

Thái độ vô úy không sợ hãi trước thế cuộc hỗn mang là một thái độ hùng tráng mà người thi sĩ đơn thân độc mã thể hiện giữa thời buổi dầu sôi lửa bỏng, đất bằng dậy sóng ngả nghiêng, làm đảo lộn hết mọi thứ giá trị cao quý, nhất là giá trị tinh thần đạo đức cũng xuống cấp trầm trọng, hầu như không còn đất đứng nữa rồi. Còn biết nói gì hơn là Tịnh Khẩu, trước những kẻ ma cô xảo trá, lập lờ tráo trở trên trận đồ đảo điên của các thứ gọi là ý thức hệ, chủ nghĩa, học thuyết, tôn giáo, văn hóa, văn nghệ bây giờ :

Khách đến
Sao ta hết thiết tha
Ngồi ỉa
Bởi
Cách gò mối không xa
Không phân biệt nổi người hay ma
Có theo tôn giáo học thuyết hay chủ nghĩa nào không nhỉ ?
Nheo mắt già nhìn kỹ
Rất hy vọng không phải điếm đĩ
Trên trận đồ văn hóa nội ngoai đảo điên
Để khỏi thương cho sự ra đời
Thiếu suôn sẻ tự nhiên
Của thỏi vàng nhão
Từng bị a dua tra khảo
Quá tội nghiệp

Ừ quả là đáng tội nghiệp thay ! Trước thảm cảnh bi đát đang xảy ra trên toàn cầu, khắp mặt đất trầm trọng đau thương, cả thế giới đang bị đủ thứ vũ khí tối tân bằm nát bấy ra như thế, thi sĩ chỉ còn biết quay về trong niềm im lặng, lắng nghe thơ hát giữa mông mênh vũ trụ và bàng hoàng thấy mưa lộng, nắng trào trên đồi cao Phương Bối :

Trưa đứng một mình đợi ai lên
Đất trời đâu có dưới và trên
Gò cao ổi sót rụng một trái
Dòi ăn một bên ta một bên

Hình ảnh “dòi ăn một bên ta một bên” thật cảm động, không thể nói nên lời. Phản ánh tình trạng nhà thơ đang đói, đói và đói, gian nan và khổ cực bức bách thường xuyên ráo riết đến chỗ gần tuyệt lộ. Đỗ Phủ ngày xưa chắc cũng nghèo xơ xác, hàn vi đến vậy là cùng. Thế mà không biết có một phép mầu nào đó đã âm thầm trợ lực cho thi sĩ vượt qua và vượt qua mọi thử thách, cực khổ, gian nan một cách ngoạn mục như vậy ?

Sơn Núi lầm lũi, đứng tách riêng một mình, một bóng, không gia nhập bất cứ phe nhóm, đoàn thể, đảng phái nào cả, lặng lẽ rút lui về núi rừng hoang vắng tịch liêu, nằm lẫn trong sương mờ vạn cổ, gõ vào vách đá mà hát khúc hạo nhiên chi khí ca và sáng tạo, sáng tạo không ngừng qua từng hơi thở, từng tế bào mạch máu, từng bài thơ như Một Mình Đi Luồn Vô Luồn Ra Trong Núi Chơi :

Khi thấm mệt tôi đi luồn ra núi
Cuối chiều tà chỉ gặp bãi hoang sơ
Bước lủi thủi tôi đi luồn vô núi
Nghe nắng tàn run rẩy bóng cây khô
Chân rục rã tôi đi luồn ra núi
Hồn rụng rời trước mặt bãi hư vô

Hư vô, hư vô, hư vô là gì mà thi sĩ rụng rời khi giáp mặt ? Phải chăng như nhà văn Hemingway, người đã từng đạt giải Nobel văn chương vào năm 1954, bị hư vô ám ảnh suốt một đời cho đến khi tự tử ? Không biết, không biết, thưa rằng chẳng biết chi mô, chỉ biết rằng nắng trào, lửa cháy tịch mịch trong lòng chàng thi sĩ kỳ dị kia rất yêu thích nghệ thuật, lấy nghệ thuật làm lẽ sống cho đời mình như có lần chàng tuyên bố trong Thay lời tựa tập thơ Tịnh Khẩu : “Có sống nhiều năm ở Sài Gòn nhưng không hề thấy chút chi cái đẹp của thành phố và tự hỏi không hiểu vì sao hàng tỉ người có thể sống trong những đô thị lớn trên thế giới. Sẽ tự cứa cổ tự tử ngay nếu một ngày nào đó đầu thai lên thấy đất của các đô thị, nhà cửa và khu kỹ nghệ tràn lấn quá nửa diện tích của núi rừng, sông biển, thác suối, ao đầm hồ…Tự nhận là tha thiết với xã hội vô chánh phủ, khó có thể có trên thế giới này. Từ đó, từ đó thôi cũng dễ tắt thở rồi. Vậy chớ cái gì làm cho nó có thể còn sống được cho tới ngày nay ? Ông Phật, ông Khổng và nhất là ông Lão, đành rồi, nhưng còn một ông bao trùm hết và hốt ba ông kia bốc cao lên : Ông Nghệ Thuật.”

Đúng thế, nghệ thuật là hình thái ý thức xã hội đặc biệt, dùng ngôn ngữ hình tượng sinh động cụ thể, gợi cảm để phản ánh hiện thực và truyền đạt tư tưởng tình cảm tuyệt trần Chân Thiện Mỹ. Nghệ thuật là một phương tiện giúp cho chúng ta đạt tới chân lý, tới cái như thật, như thị, như như. Sự thật khách quan như thế nào nhìn đúng như thế ấy, bản chất mình như thế nào nhận đúng như thế ấy nhưng dĩ nhiên điều  kẻ sáng tạo thấy biết đó không phải là sự thực khách quan, cứng nhắc, khô khan mà là sự thực sinh động, rung động hơi thở sự sống, rộn ràng nhịp đập thiên thu.

Như vậy nghệ thuật ở đây là hơi thở, là đạo sống đích thực, sống hoàn toàn tự do tự tại, giải thoát mọi ràng buộc, mọi trói cột vào vòng nô lệ thế gian. Người nghệ sĩ vĩ đại là biết sống thanh thản an nhiên giữa cuộc tồn sinh, dù ở trạng huống bi đát nào thì cũng không run sợ, hèn nhát, van xin, vẫn tự tin chắc nịch vào nội tâm thâm hậu của chính mình, thể hiện qua thơ văn, nhạc họa, nhằm nhập diệu ngay vào cái thực tại hiện tiền, ngợi ca cuộc sống yêu thương, thưởng ngoạn cuộc đời rỗng rang vô sự. Từ cái nhìn đó, nhà thơ mở rộng lòng ra tâm sự cùng các con cái của mình một điều chi muốn dặn dò nhắn nhủ :

Mai kia tan biến hận thù
Giữa đêm sao chiếu mịt mù phương đông
Cha về ôm cả biển sông
Duỗi chân duỗi cẳng nằm không một đời
Cho con cha hứa một lời
Đuổi mây thiên cổ rong chơi tối ngày
Thu nào tóc bạc òa bay
Có con chỉ trỏ mới hay cái già
Cúi hôn trời đất đậm đà
Cha tan theo bóng trăng tà vạn niên

Nguyễn Đức Sơn mà người dân ở quanh vùng phố núi Bảo Lộc đều gọi là Sơn Núi một cách thân mật, rất thương yêu vợ con và làm thơ dành cho con cái cũng khá nhiều, bài nào cũng chắt chiu nhiều ý tứ sâu xa thâm trầm, vô cùng xúc cảm rưng rưng :

Xem cha đốt cỏ ngoài rừng
Nâng niu mẹ ẳm theo mừng không con
Có vài chiếc lá còn non
Gió xua lửa khói nổ giòn trên không
Nắng tà trải xuống mênh mông
Bước theo chân mẹ cha bồng hư vô

Nắm tay lật úp đi con
Co thân tròn trịa như hòn đá lăn
Muốn cho cuộc sống không cằn
Tập cho quen mất thăng bằng từ đây

Khi không tao tạo nên mày
Lọt ra từ cõi không ngày không đêm
Xưa kia trên cái bụng mềm
Tao đâu ngờ đã chất thêm lượng sầu
Đất trời đến thuở rụng râu
Có tao hậm hực ngồi khâu cuộc đời

Thế đó, một bầy con sinh ra đều đặn dưới trăng mờ sương khói rừng xanh, có hai cô gái út Phương Bối, Tiểu Khê, bây giờ đã lớn hết rồi, trừ  Đức Thảo đã mất, còn lại đứa nào cũng tung cánh chim trời, rời núi rừng hoang vắng bay xuống vùng thung lũng bình nguyên, biết sống tự lập và cũng biết mần thơ, nhất là thơ Nguyễn Đức Vân, Nguyễn Đức Yên bàng bạc hơi giống hồn thơ lục bát của phụ thân. Bởi do có nhiều con cái, lúc nhúc thê tử như vậy, làm sao không tránh khỏi phiền não khổ lụy, nên chi Sơn Núi có lúc cũng Nói Thật, một sự thật não nùng, túng thiếu của những gia đình nheo nhóc buồn thiu :

Ở ăn với mẹ mày nhiều
Có trưa hộc máu có chiều trào cơm
Có đêm quẩn trí sôi đờm
Sáng ra cuộc sống quá nhờm con ơi !
Ru con cha rống thấu trời
Oan khiên tan ở giữa đời cho mau

Sầu khổ thái quá, hân hoan thái quá, thi sĩ đi từ cực đoan này đến cực đoan khác một cách tự nguyện, tự dấn thân liều lĩnh, đương đầu cho đến tận cùng một vấn đề nào đó trong cuộc sống như muốn khám phá để bùng vỡ ra điều chi bất khả tư nghì. Quả thật, không thể nghĩ bàn chi được hết, chỉ còn một cách thể hiện bằng hành động nhập cuộc, ôm trọn tử sinh trong vòng tay nghiệp dĩ, vì biết rằng, chẳng có gì hơn là mộng mị, ảo giác hoang mê :

Rồi mai huyệt lạnh anh về
Ru nhau gió thổi bốn bề biển xưa
Trăng tà đổ bóng cây thưa
Mộng trần gian đã hái vừa chưa em ?

Chắc có lẽ chỉ có Nguyễn Thị Phượng mới trả lời được câu hỏi này mà thôi. Ơi chao ! Hình ảnh nàng thơ gầy, mấy chục năm trời sống với chàng thi sĩ dị thường trên núi cao ấy, là một hình ảnh đẹp như huyền thoại, đầy sức chịu đựng, kiên trì nhẫn nhục, vô cùng độ lượng bao dung. Tình yêu của con người trên mặt đất quả thật vô lượng vô biên, vừa huyền diệu thiêng liêng mà cũng vừa phù du huyễn mộng :

Sáng mênh mông
Ta đi thơ thẩn trong vườn hồng
Ồ bông ồ mộng ồ không

Sống bi tráng, làm ẩn sĩ riết trên núi đồi heo hút suốt hơn mười lăm năm sau, vào tháng 12 năm 1992 nhà thơ mới thực hiện một cuộc phiêu lưu xuống núi, thăm lại Sài Gòn. Chốn cũ giờ đây quá nhiều đổi khác, bạn bè xưa tan tác tàn xiêu, chẳng biết phương nào trôi nổi. Đôi ba thằng bạn trí thức xưa, bây giờ lưỡng lự phân vân trên con đường tiến thối lưỡng nan, vì bị mắc vướng vào vòng mâu thuẫn, xung đột nội tâm, không biết dứt khoát như thế nào, cảm thấy lòng dạ bất an. Thông cảm tình trạng của bạn, Sơn Núi nhẹ nhàng Tâm Sự Với Một Đảng Viên Trí Thức Muốn Ra Khỏi Đảng :

Anh đi cách mạng bao năm
Từ rừng đến phố dao găm chưa xài
Vẫn chưa dứt điểm sòng bài
Tấm thân ê ẩm khuya dài đau sao
Cứ yêu tha thiết đồng bào
Tuy nhiên hễ thấy máu trào thì ngưng

Những tên cơ hội, dở dở ương ương kiểu ấy, dĩ nhiên là sống nhạt nhẽo, thiếu sinh khí, chỉ biết đeo mặt nạ giả dối. Rồi từng bước đơn hành giữa thành đô náo nhiệt, viếng thăm dăm bảy con đường xưa đây đó và một chiều phiêu hốt theo cơn gió, ngập ngừng dừng lại ghé Thăm Bạn Là Công Nhân Nghèo Dọn Nhà :

Xe ba gác đã đến rồi
Mau mau bàn ghế chảo nồi chất lên
Vợ chồng được mấy tấm phên
Những đêm hạnh phúc nhà bên khó dòm
Giờ này còn cãi om sòm
Nhựa nhôm cũng món tiền còm mang theo
Đừng quên cái khoản cứt heo
Gởi về quê giúp ruộng nghèo đói phân

Thật là tiêu biểu làm sao, miêu tả đậm nét cả một nếp sống bấp bênh của giới dân nghèo lao động, không có hộ khẩu thành phố, phải ở tạm bợ, tạm trú đó đây, chạy ngược chạy xuôi hối hả, tất bật, tìm sinh kế để kiếm ăn qua ngày lay lất. Đấy là đa số những cảnh đời vất vả gian nan, hết sức cực khổ, lao đao, đói rách nhọc nhằn. Lặng hồn sờ sững, khi nhà thơ tái ngộ, tao phùng một người bạn cũ, trước kia rất thân thiết, thâm giao, sao bây chừ lại lạt lẽo, hờ hững, vì tư tưởng đối nghịch hoàn toàn khác hẳn, khi bạn bầu lâu ngày gặp lại Trên Sân Thượng Một Nhà Hàng Đặc Sản :

Cố nhân này cố nhân ơi !
Sợ gì bội thực cuối đời đấu tranh
Yêu cầu nhậu tiếp đi anh
Mặc tôi ngồi ngó trời xanh ngập ngừng
Ngày xưa từ chối vô bưng
Tôi đi lỡ thẳng cái lưng quen rồi
Thơ văn không kỵ chảo nồi
Cảm ơn gặp gỡ bồi hồi bắt tay
May mà còn có chiều nay
Bánh mì tôi gặm mây bay anh nhìn

Tin tưởng vào lẽ công bằng, lý nhân đạo bao la của trời đất, nhà thơ xúc động đồng cảm, chia sẻ cùng với biết bao cảnh đời éo le, tội nghiệp của các chị em phụ nữ, những trái tim ứa máu, đau đớn vì bị người yêu phũ phàng phụ rẫy, khi tình cờ một sớm mai lang thang phố thị, đi ngang qua nhà thương, bất ngờ Gặp Gỡ Trước Bệnh Viện Từ Dũ :

Chị đi khám sản phải không
Anh đâu chẳng thấy dáng trông lạc loài
Bao năm thai trứng nạo hoài
Năm nay đừng nhé thai ngoài tử cung
Họ nghi tàn bạo lạ lùng
Oan khiên tội lắm anh hùng bạn tôi

Gần nửa tháng rong rêu khắp nẻo phường xanh phố đỏ thị thành, một thành phố đầy bụi khói oi nồng thời công nghiệp, máy móc khô cứng, chứng kiến biết bao cảnh ngộ vô thường, đắng cay thay đổi, bên này khác hẳn bên kia, lòng dạ con người càng bạc nhược ươn hèn, suy đồi thối tha, cạn kiệt biến chất theo kiểu đểu giả, lếu láo quỷ ma nhiều quá, chàng đãng tử ê chề, ngao ngán mà Giã Từ Thành Phố Hồ Chí Minh :

Mai tôi về núi em ơi !
Quẩn quanh thành phố ma chơi quỷ đùa
Thời công nghiệp dạo sân chùa
Tên siêu đãng tử cưỡi rùa trong mơ
Ba năm ví bỏ làm thơ
Ba ngàn năm nữa ai rờ tan hoang
Bên này đèn điện sáng choang
Bên kia vách mộ nắng loang tắt rồi

Thôi thế là cũng đủ, một vài bức tranh xã hội sẫm màu sầu khổ, bất an, cơ hội, hưởng thụ, vênh váo, vô cảm, hợm hĩnh dưới cõi phù sinh kia là vậy. Thấy gì chăng hay chỉ thấm ngậm ngùi ? Lui về núi cao nằm ngắm mây trời suốt sớm trưa chiều tối, dạo quanh triền đồi non núi lạnh pha phôi… Rồi đến cuối năm 1996 nhà thơ lại ngứa ngáy tay chân, nên làm một trận ngao du xuống núi lần nữa, theo cách điệu Ừ, Vậy Đó :

Đã gần sáu chục tuổi rồi
Làm thơ trắc nết như hồi hai mươi
Núi thần vây bủa đười ươi
Lang thang tôi kiếm con người hôm nay
Gặp em thuở tóc đang bay
Chòi hoang nằm mộng hai tay tuột quần

Thằng bạn Đặng Toản đang sống bồng bềnh bên Mỹ quốc, cháu ruột nhà phê bình Đặng Tiến, là một người thuộc làu làu thơ Nguyễn Đức Sơn, hầu như không sót bài nào, rất thích bài thơ này. Nghe hắn vừa đọc thơ vừa bình giải cả tiếng đồng hồ qua điện thoại cũng thấm thía, thấy hay tuyệt. Ồ ! “Lang thang tôi kiếm con người hôm nay.” Làm sao mà kiếm cho ra một con người đích thực ? Ừ ! “Chòi hoang nằm mộng hai tay tuột quần” là mộng trong cuộc mộng du dương, cũng như không hề uống rượu mà vẫn thấy say sưa, túy lúy như thường. Sơn Núi chưa bao giờ nhắp đến một giọt rượu gạo, rượu nếp hay bia bọt nào hết cả nhưng rượu thơ, rượu nhạc, rượu hồng nhan thục nữ thì cứ vẫn lai rai, nốc cạn chén lai láng bồi hồi :

Tôi không hề nhậu em à
Thế nhưng trời đất đậm đà luôn say
Thiên đường nếu chẳng chốn này
Cắn răng chịu vậy miễn bày xa xăm
Cho nâng nhé một chút cằm
Có đâu nhất thiết phải nằm trên mông

Giọng thơ pha chút bông đùa, cà rỡn nhưng cũng như cung đàn trầm dịu yêu thương, lướt nhẹ hòa âm, thấm thía tận tâm can, thể phách một nỗi đau đời, xót xa cho biết bao thân phận gái bia ôm, những nàng Kiều hiện đại ở khắp dọc đường, khách đãng tử giang hồ, một hôm nọ tình cờ ghé thăm qua :

Mai tôi về núi thật mà
Dẫu cho thực tế khác xa cái cùm
Bia ôm đã mọc tùm lum
Màn đêm thô tục bao trùm thanh niên
Thế nhưng giọng lưỡi thánh  hiền
Dưới trên nhất trí đang ghiền phát huy
Tiền đồ quá mức báo nguy
Đau thay quần mục cài khuy cách nào ?
Em ơi ! Nước mắt cấm trào
Ngủ xong nhớ ngáp ào ào giùm nghe

Nghe ra niềm chi não nề tê tái, nghèn nghẹn chẳng thể thốt nên lời :

Mai tôi về núi thật rồi
Chúc em ở lại đứng ngồi tự nhiên
Xem tôi chánh hẩu thằng điên
Tim pha chút máu thánh hiền cho vui
Rung đùi tập thể trở mùi
Núi cao tuy vậy ngậm ngùi vài năm

Vài năm ngậm ngùi chuyện chi như rứa ? Thưa rằng chẳng biết chi mô, chỉ biết là bây giờ trên đồi thông Phương Bối đã xây thêm một ngôi nhà, có vài ba phòng tiện nghi tương đối, do sư bà Huệ Giác, viện chủ Quan Âm tu viện ở Biên Hòa và sư cô Hương Nhũ du học từ Ấn Độ về, tận tình giúp đỡ, tài trợ cho gia đình thi sĩ. Sơn Núi ít khi nghỉ ngơi đây mà ở biệt lập một am vắng trên đồi cao nhất Phương Bối, nằm ẩn hiện giữa những bụi trúc xanh vàng, lãng đãng sương mù bàng bạc mênh mang. Sáng trưa chiều tối, lội lên vòng xuống quanh mấy triền đồi thông trúc biếc, song thoại thầm thì với cây cỏ lá hoa :

Sướng quá đời ta tuổi sắp già
Bao nhiêu học thuyết bước đều qua
Nay về dắt bóng chơi am vắng
Ấu trĩ vườn trăng một tiếng gà

Một tiếng gà rừng gáy trưa đâu đó giữa đồi thông vọng lên văng vẳng rồi tan loãng bay là đà theo sương khói chập chùng lan tỏa khắp mông lung :

Nhờ hồng phúc
Mà nay
Mặc dù đã có gia đình bậy bạ rồi
Tôi vẫn đang ngủ trên am mây
Với những bậc thầy
Muôn thuở trước

Còn nghìn năm sau, nếu có ai chợt nhớ đến nhà thơ Nguyễn Đức Sơn thì cứ việc thoải mái như lời nhắn gởi khơi vơi :

Đời sau người có thương ta
Từ lâu xuống lỗ làm ma mất rồi
Đường xa xin chớ bồi hồi
Mả hoang nhảy đại lên ngồi đi cha

Lạ lùng thay ! Hình ảnh cái chết của nhà thơ hiện ra quả nhiên là quá tuyệt, tuyệt như tiếng vọng trong ngần, phất phơ giữa vô tận không gian và thời gian :

Ngàn sau
Phơ phất gò bông lau

Mầu nhiệm không những là cuộc sống đang là mà còn hiện hữu ở bên kia sự chết nữa, qua thần lực sức mạnh của nghệ thuật thi ca, nhà thơ đã vượt lên trên cái chết ngay trong sự sống từng giây phút thanh tân…

Rất nhiều lần rồi, tôi về thăm Sơn Núi, cùng dạo quanh sườn đồi thong dong, lòng rỗng rang như mây trắng, nhắc lại hồi xưa, thời Sơn Núi còn lưu trú chùa Trúc Lâm ở Gò Vấp, Sài Gòn, tôi thường ghé chơi, có lần cùng thi sĩ đạp xe rong rêu lên Lái Thiêu, Bình Dương chơi suốt mấy ngày đêm rồi mới về. Thời đó là năm 1973, tôi đang theo học Đại học Vạn Hạnh, mới tập tành làm thơ và học được ở thi nhân rất nhiều về kinh nghiệm sáng tác văn chương…

Phương Bối đồi thông, lộng gió mây trời thiên thanh vĩnh thúy, thỉnh thoảng rộn gót chân du sĩ đi về, những chàng lãng tử tứ xứ mười phương, ngưỡng mộ Sơn Núi, những bạn bè vong niên, thâm thiết đều tìm viếng thăm một bận thân tình như họa sĩ Đinh Cường từ Mỹ về, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, nữ sĩ Thu Nguyệt từ Sài Gòn lên, nhà thơ Nguyễn Dương Quang ở Đà Lạt xuống, nhà văn Bửu Ý ở Huế vào và mới vài tháng trước, thiền sư thi sĩ Tuệ Sỹ trên đường hành cước vân du cũng ghé lại, thư thả chơi dăm ba ngày. Gần đây nhất vào tháng 2 năm 2014 tôi lại bầu rượu túi thơ lên Phương Bối, ngồi cùng Sơn Núi, khề khà đủ thứ chuyện văn nghệ trong quán cà phê Lối Xưa ở phố núi Bảo Lộc, một chiều phiêu phất, lạnh nhòa hoa nắng lưa thưa. Bữa đó tôi có làm bài thơ này tặng thi sĩ  nhưng quên đưa, trước khi từ giã :

Gió bụi mù du sĩ ca
Qua bờ khốc liệt khiến nhà thơ câm
Tịnh khẩu rồi lặng âm thầm
Trầm đêm nguyệt động hỡi thâm xứ nào
Tưởng chừng như giấc chiêm bao
Bao nhiêu bọt nước vỡ trào bấy nhiêu
Vọng sầu thiên cổ tiêu điều
Ngút đồi hoang dại khói hiu hắt vờn
Hoa cô độc trổ cô đơn
Rợn màu máu lệ rợn hồn rưng rưng
Lời ru vẳng gió sương rừng
Mộng du trên đỉnh mùa xuân một mình

Tâm Nhiên


Thơ Nguyễn Đức Sơn ( chữ nghiêng)  trích trong các tác phẩm :
Đêm Nguyệt Động. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1967
Vọng. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1971
Tịnh Khẩu. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1973

Những bài thơ rải rác viết sau năm 1975