Thi sĩ Phạm Công Thiện ( Hoa Kỳ 2000 )
Có những con người
đến rồi đi qua mặt đất trần gian này như một cơn giông tố bão bùng sấm sét, gây
chấn động kinh hồn, làm bùng vỡ một điều chi kỳ vĩ, tinh khôi trên bầu trời tâm
thức nhân loại, Phạm Công Thiện là một con người độc đáo như vậy. Đấy là một giáo
sư, tư tưởng gia, nhà văn, nghệ sĩ hay một thi sĩ kỳ tuyệt thiên tài, như đại văn hào Henry Miller, từ Hoa Kỳ đã phát biểu
trong một thư
gởi Phạm Công Thiện đề ngày 8.8.1966 : “Mới
ở tuổi 25 mà là khoa trưởng văn chương ở một đại học nổi tiếng trong xứ sở của
ông, quả nhiên là thiên tài. Điều đó thật phi thường
quá, quả thật khó tin, thật như chuyện huyền thoại.” Đúng vậy, một con người đã đến và đi như
huyền thoại giữa cuộc sống thiên
diễn, đầy biến động trên quê hương đất nước Việt Nam.
Làm sao nói về con người quá kỳ diệu này ? Vào một
chiều tháng 6, bắt đầu mùa hạ năm 1941, Phạm Công Thiện ra đời bên dòng sông
thơ mộng Cửu Long, một dòng sông bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng ngút ngàn, chảy xuống dọc ven bờ phố
thị Mỹ Tho, một thị xã nhỏ nhắn, lặng lẽ hiền hòa ở miền Nam. Thi sĩ lớn lên từ đó, từ thuở nhỏ vốn bẩm sinh thông minh xuất chúng,
học một biết mười đến độ thông thạo nhiều sinh ngữ, đọc hàng đống sách đủ loại Đông
Tây kim cổ… Suốt ngày đêm cứ mặc sức mơ mộng, rong chơi và tha hồ tắm sông lội
nước, nằm ngắm mây trời bay lãng đãng xa xôi…
Rồi bất thình lình,
đột ngột một hôm vụt đứng dậy, xuất hiện trên văn đàn Việt Nam như một thần
đồng, một thiên tài lỗi lạc, biết nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Nhật, Hán, Phạn, Pali, Tây Tạng,
Tây Ban Nha… Từ thuở mới 13, 14 tuổi, chàng đã có những bài
tiểu luận, tham gia cộng tác với các tạp chí Phổ Thông, Dân Ta, Bông Lúa, Giữ
Thơm Quê Mẹ, Văn, Văn Nghệ, Bách Khoa… Những bài viết triết lý, thi ca, viết về
các nhà thơ, nhà văn trên thế giới, khiến Nguyễn Vỹ ( chủ bút tạp chí Phổ
Thông, Dân Ta ) và học giả uy tín Nguyễn Hiến Lê đều nể phục, xem là thần đồng,
một hiện tượng vô cùng hy hữu giữa thế kỷ XX.
Năm 1957, mới 16
tuổi đã xuất bản Tự Điển Anh Ngữ Tinh Âm, 19 tuổi viết Ý Thức Mới Trong Văn Nghệ Và Triết Học, 23
tuổi, viết Tiểu Luận Bồ Đề Đạt Ma, 25, 26 tuổi, viết Hố Thẳm Tư Tưởng, Im Lặng Hố Thẳm, Ý Thức Bùng Vỡ, Bay Đi Những Cơn Mưa Phùn, Trời Tháng Tư, Ngày Sinh Của Rắn, Mặt Trời Không Bao Giờ Có Thực, Nikos Kazantzaki, Rainer Maria Rilke, Henry Miller và dịch thuật từ tiếng
Anh, tiếng Đức những tác giả vĩ đại Krishnamurti,
Nietzsche, Heidegger, Hoelderlin… làm chấn động toàn thể giới văn nghệ sĩ trí thức Sài Gòn miền Nam
thời bấy giờ.
Thời kỳ ấy, từ 1966
đến 1970, mới 25 tuổi, Phạm Công
Thiện đã làm
Khoa trưởng Văn khoa Đại học Vạn Hạnh, đồng thời là giám đốc soạn thảo Chương
trình giảng dạy cho tất cả các phân khoa Xã
hội Nhân văn và chủ biên tạp chí Tư Tưởng đã khơi nguồn mạch sáng tạo trào dâng chất ngất
cho giới văn nghệ, mở ra thể điệu phiêu bồng trên cung bậc văn chương, tư
tưởng, thiền học, triết lý, thi ca bát ngát diệu thường. Trước
đó, nhà thơ cũng đã từng làm những chuyến giang hồ tứ chiếng, xách túi thơ bầu
rượu ngao du sơn thủy qua New York, California,
Paris, Thụy Sĩ, Hy Lạp, Ba Tư, Ý Đại Lợi rồi, từng diện
kiến, tiếp xúc với những nhân vật kiệt xuất lừng lẫy trên thế giới như Krishnamurti ở
Paris, Henry Miller ở Los Angeles.
Văn chương nghệ thuật, triết lý thi ca, những tác giả kỳ cựu, những bậc
cao thủ thời đó đều tập trung về Đại học Vạn Hạnh, tạo nên một bầu không khí
sinh động vô vàn. Đang là thần tượng của đám sinh viên các
Đại học Vạn Hạnh, Văn Khoa, Sài
Gòn, Huế, Đà Lạt thì đùng một cái, Phạm Công Thiện bỏ ngang chức Khoa trưởng
Văn khoa Đại học Vạn Hạnh, lên đường viễn phương hành, làm cuộc ra đi vô mục đích, nhảy tung vào Hố Thẳm Tư Tưởng không đáy bồng bềnh, lênh
đênh qua tận bên kia bờ đại dương vào năm 29 tuổi, tức năm 1970.
Đó là lúc Ý
Thức Bùng Vỡ làm thay đổi cả một nếp sống bình sinh, hay cũng là một thái độ phản
kháng cuộc chiến tranh tương tàn tương sát, đang diễn ra ở xứ sở Việt Nam đến độ khốc liệt, kinh hoàng, khủng khiếp nhất trên khắp hai
miền Nam Bắc phân tranh, làm sụp đổ tan tành, tan hoang hết mọi sự trong tiêu điều,
điêu linh trầm thống...
Sống trong thời buổi loạn ly, bị khổn vây bầu không khí ngột ngạt như
vậy, một hồn thơ sâu thẳm, nhạy cảm như chàng làm sao không rơi vào trạng thái
cô đơn ? Cô đơn rờn lạnh hiu hắt, lặng buốt cả tim hồn thổn thức, cũng như bao
thanh niên khác, chàng tìm đến tình yêu cho khuây khỏa bớt u sầu. Yêu nhau cảm động dường nào
ơi xao xuyến, xốn xang, chan chứa một điều chi da diết, trong tiếng hát
liêu trai của nàng ca sĩ yếu gầy.
Hình ảnh nàng ca sĩ yếu gầy ấy đã đi vào thi ca chàng một cách trữ tình, lãng
mạn giữa trầm trầm mê mê bóng sương nhòa tha thiết trong hồn lệ rưng rưng :
Cô đơn về trắng sương rừng
Anh nghe tiếng hát hoang đường nửa đêm
Khuya buồn tủi nhục môi em
Mưa run lặng lẽ bên thềm bơ vơ
Tiếng ru vàng xuống đôi bờ
Hoang vu anh đứng đợi chờ chim kêu
Tay gầy ôm chặt tình yêu
Anh về phố gục những chiều hư vô
Đời đi trên những nấm mồ
Đau thương em hát cơ hồ khăn
tang
Phố chiều thả bước lang thang
Như con sông nhỏ mơ màng biển xanh
Nửa đêm khói đốt đời anh
Yêu em câm lặng khô cành thu đông
Lời em như một dòng sông
Đôi bờ anh đứng giữa lòng hoa niên
Mưa chiều nước chảy triền miên
Một con chim dại lạc miền hoang lương
Về đâu thương những con đường
Lê thê phố cũ nghe buồn hè xưa
Hè xưa phố cũ tuy
buồn bã mà
vẫn có một vẻ đẹp não nùng của thứ tình yêu diêu mang lãng đãng. Chàng thi sĩ
đa tình đa cảm, trót vương mang
dáng dấp nàng thơ gầy guộc, có đôi mắt sầu mộng xanh huyền nào đó trên cao nguyên, nghi ngút sương mù bay
trắng cả rừng thông. Bồng bềnh
trong tâm trạng tương tư theo từng cơn gió thổi từ đồi tây sang đồi đông, hay
từ đồi thông qua đồi thu, suốt mười năm trời mơ mộng, nhớ thương, tưởng vọng trong rưng rức ngậm ngùi :
Mười năm qua gió thổi đồi tây
Tôi long đong theo bóng chim gầy
Một sớm em về theo giấc ngủ
Bông trời bay trắng cả rừng cây
Gió thổi đồi tây hay đồi đông
Hiu hắt quê hương bến cỏ hồng
Trong mơ em vẫn còn bên cửa
Tôi đứng trên đồi mây trổ bông
Gió thổi đồi thu qua đồi thông
Mưa hạ ly hương nước ngược dòng
Tôi đau trong tiếng gà xơ xác
Một sớm bông hồng nở cửa đông
Dòng thơ phơ phất trôi đi, dĩ nhiên là ẩn ngữ chập chùng, có thể là mang
tâm hồn Đông phương mà chạnh lòng, ngóng vọng trời Tây phương bên ấy, hay thả
hồn mơ mộng, sầu nhớ trong niềm đau nhói buốt chia ly, xa cách người yêu dấu cũ
mơ màng ? Bản sầu ca lãng mạn đẹp mơ hồ trong giọng hát vô thanh, mặc sức cho
chúng ta tưởng tượng, hiểu ý thơ theo mỗi cách riêng biệt của mình. Phải chăng, đó là cõi thơ huyền mộng,
hư ảo tự thuở nào xa ngút ở trên rừng Phi Nôm, Đà Lạt hay dưới vùng biển Vạn Giã, Nha Trang ? Ơi nhớ một chiều mưa thấp thoáng tần ngần, thi nhân rời
bãi biển cát trắng, gõ nhịp bước đơn hành, đi về leo lên sườn đồi cao Hải Đức, bỗng sực thấy
cây khế bừng rộ hoa tim tím, bên triền dốc đá hoang thưa :
Mưa chiều thứ bảy tôi về muộn
Cây khế đồi cao trổ hết bông
Hoa nở rồi tàn cũng
như những nàng con gái mộng mơ đến rồi đi. Tuy vậy, vẫn còn quyến
rũ mị kỳ cứ ám ảnh chập chờn, thoang thoảng, phảng phất những làn hương. Trước
ngày khởi hành, thi nhân leo lên đồi Hải Đức, Nha Trang ( nơi ngày xưa vào năm 1963, chàng chán ngán
cõi đời đi xuất gia, làm đệ tử thầy Trí Thủ ở đó với pháp danh Nguyên Tánh ) ngồi
một mình trên đồi cao, nhìn xuống biển cả muôn trùng vắng lặng, lắng hồn cô đơn, tịch mịch để
nghe vọng về bao nỗi đời ly tán, đớn đau, bàng hoàng trong rưng rưng nhức nhối
:
Hồi chuông chùa vọng luân hồi
Chim chiền chiện hót ngang trời đau thương
Trùng dương nằm đợi vô thường
Đồi cao bạt gió hai đường âm u
Âm u hai đường,
đông tây đôi ngã thê lương, còn chi đâu mà nói nữa. Thôi thì cánh chim ngàn cứ tung bay cho hết bầu
trời tính mệnh bao la của mình. “Bổn phận
của mi là lên đường đi đến hố thẳm, một cách im lặng, rộng lượng và không hy
vọng.” Văn hào Nikos Kazantzaki đã nói như vậy, cũng như triết gia Heidegger
làm những câu thơ như âm thầm khích lệ thi sĩ lên đường : “Bước tới và chịu đựng. Sự thất bại và câu hỏi. Trung thành với lối đi duy nhất của mi.” Thi
sĩ Phạm Công Thiện đã cảm nhận chân thiết lời thơ đó, nên hùng tâm tráng khí, im
lặng thực hiện một cách mãnh liệt cuộc lữ phi thường, khởi sự tấu khúc độc hành
ca trên lộ trình hướng về hố thẳm
uyên mặc hay uyên nguyên khơi mở.
Buông tay vào hố thẳm, mở ra những phương trời hoằng
viễn như Rimbaud, Henry Miller,
Nietzsche, như Hoelderlin, Whitman, Blaise Cendrars,
như Nerval, Van Gogh, William Blake, như Emerson, Faulkner, Dostoievsky… những
đồng thanh tương ứng với thi sĩ nên luôn luôn xuất thần,
ngất trời túy lúy, phóng cuồng phiêu đãng hoan say. Cháy và chảy, cháy và chảy
mãi trong hồn, như một lần lúc 24
tuổi, chàng đã từng nhắn gởi cho giới trẻ thanh niên Việt Nam : “Gởi một người đọc không quen, cùng cháy một
thứ lửa thiêng như tôi, cùng được nuôi bằng một thứ nước điên nào đó chảy trôi
như tôi, cùng sống như tôi đang sống : Cháy và chảy, cháy và chảy không
ngừng…”*
Không ngừng trôi chảy, thi nhân làm cuộc lữ lên đường qua Paris, tiếp
tục chuyến đi tuyệt mù viễn xứ vào những phương trời xa lạ. Bước đi một mình một bóng, đơn thân độc mã quá đỗi phong trần, lang thang suốt muôn
chiều phiêu lưu, phiêu lãng ngàn phương. Hừng hực ngọn lửa thiêng suốt ngày đêm
bừng cháy trong trái tim, đồng thời một dòng sông xanh ngát luôn tuôn chảy
bất tuyệt ở trong hồn, nên chàng thi sĩ đã hào hứng lên đường ra đi tấu khúc viễn hành ca ngàn muôn lối :
Tôi đi đông chìm
Trời âm u thung lũng khô
Nhiều mây chim bay không nổi
Tôi đi
Dưới kia sụp đổ
Núi Cấm nổ tôi ra
Cửu Long ca từ Tây Tạng
Dòng sông Cửu Long bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng, chảy gập ghềnh qua
các xứ miền Miến Điện, Lào, Campuchia và xuôi dòng cuồn cuộn, cuốn lũ phù sa
qua Mỹ Tho, Việt Nam, thành phố quê nhả một thời tuổi nhỏ của thi sĩ, rồi cuối
cùng tuôn tràn ra đại hải trùng dương. Chính dòng sông Cửu Long ấy đã nuôi
dưỡng tâm hồn thi nhân nên chàng luôn mang theo, rạt rào trôi chảy suốt trong
lòng trên khắp mọi miền viễn xứ. Như ngôi sao băng vụt ngang trời, một mình làm
cuộc phiêu lưu, vút bay qua Paris kinh đô Pháp quốc, có lúc rong rêu sống lưu
lạc ở Đức, Do Thái, rồi lại về Paris… Không phải để hưởng thụ vinh hoa phú quý
gì mà trái lại, tự nguyện sống không nhà, không cửa, tựa như nhánh lục bình
trôi phập phềnh trên dòng sông Seine xanh biếc
mộng :
Mộng ở đầu cây mơ lá cây
Dòng sông ngừng chảy đợi mây bay
Kêu nhau nhỏ nhẹ sầu năm ấy
Chim hải hồ bay trắng tháng ngày
Ngày tháng lang bạt kỳ hồ đó, Phạm Công Thiện đi từ bế tắc này đến tuyệt
lộ khác như chính chàng tâm sự : “Giai
đoạn sống ở Paris
dạo ấy là giai đoạn bế tắc nhất trong đời tôi. Một ngàn chữ không cuốn theo
bước đi tôi, không tiền, không nhà, không nghề nghiệp, không tình yêu, không
tương lai, không gì cả... Tôi là một số không to tướng, di động giữa những
đường phố Paris .
Đó là lần đầu tiên trong đời, tôi hiểu được thế nào là đói, là nghèo, là khổ,
là tuyệt vọng... Đi từ bế tắc này đến bế tắc khác, nhưng tôi vẫn cảm thấy rằng,
tôi đã sống đến độ vỡ đê, yêu đời đến độ gần đứt mạch máu. Vâng, trong cuộc đời
hai mươi tám năm trên trái đất này, chưa bao giờ tâm hồn tôi thanh bình, trong
sạch xanh lơ tựa bầu trời mùa hạ như những ngày sống ở Paris dạo đó.”**
Thời gian vừa bi đát, long đong vừa thơ mộng, bồng bềnh ấy, kéo dài cũng
gần mấy tháng trời, rồi rất may sau đó, chàng được sự giúp đỡ tận tình của nhà
thơ Thi Vũ, Nh. Tay Ngàn, họa sĩ Vĩnh Ấn, Trần Quang Hiếu rất nhiều và đặc biệt
nhất là nhà văn Henry Miller đã chiếu cố chàng hết lòng, bằng những tấm ngân
phiếu gởi từ Hoa Kỳ cũng như Lê Khắc Thanh Hoài, một nàng thơ định mệnh đã đến
với chàng, tự nguyện sống chung một cách gần gũi cận kề, gắn bó vô ngần mật
thiết. Đó là một thiên tình sử đẹp đầm đìa, chia sẻ bao mây ngàn, gió nội đẫm sương
mưa :
Một chút mây và một chút mưa
Hồn em thở nhẹ cõi sau xưa
Buồn bay lên mấy hàng dây thép
Mây trắng em còn phơi ban trưa…
Từ sông Seine
bèo bọt chợ trời
Băng qua cầu bỗng nhớ Montreuil
Đồi Montmartre
hẹn em tiền kiếp
Một chút buồn như có gì rơi
Dường như đã có hẹn hò nhau đâu từ tiền kiếp xa xôi nào rồi, đến bây giờ
mới trùng ngộ, tao phùng lại bên bờ sông Seine, nên chi mới gặp nhau là cả hai
đều tự động cuốn hút, nhập vào nhau ca hát chan hòa. Lê Khắc Thanh Hoài, gái
Huế, một nhạc sĩ dương cầm, viết văn làm thơ, đã tự nguyện sống chung chạ với
chàng như vợ chồng suốt hơn mười năm trời đằng đẵng ở thành phố Toulouse , miền Nam nước Pháp. Đó là cuộc tình lâm
ly, đầy tình tiết ly kỳ gay cấn, hấp dẫn mà nàng đã viết lại thành cuốn tiểu
thuyết Chuyện Một Người Đàn Bà… Năm Con.
Chúng ta hãy lắng nghe nàng thơ nói về Phạm Công Thiện : “Chàng tìm đến tình yêu cũng như chàng tìm đến tôn giáo. Tình yêu cũng
phải thần thánh và linh thiêng. Như giọt nước cam lồ tưới tẩm làm tan biến khổ
não ưu phiền. Như sức mạnh của thần chú xô người qua bên kia bờ giải thoát.
Tình yêu cũng phải có mãnh lực đó. Mãnh lực chuyển hóa và thăng hoa.”
Thăng hoa và chuyển hóa là những nốt nhạc trên cung bậc tình yêu vô điều
kiện. Với người thi sĩ thượng thừa, tuy họ sống trọn vẹn, quăng ném cả thân tâm,
đắm đuối hết mình hết sức vào đối tượng yêu thương, nhưng mà họ không hề muốn
chiếm hữu, chiếm đoạt gì cả, thành thử không bị đắm chìm hay dính mắc, chẳng
nặng nề ôm giữ làm của riêng mình. Tình yêu vô điều kiện ấy, hầu như rất ít
người trong chúng ta lãnh hội và thực hiện được phải không ? Gần kết thúc cuốn truyện dài, chàng nói
với nàng : “Ở một nơi chốn hỗn loạn, ở
nơi tận cùng của khổ đau và tuyệt vọng mà tiếng nhạc của em vẫn có thể vang lên
những âm thanh dịu dàng đằm thắm, bay bổng cao vút tận chân trời, từ cái điều
Không Thể mà vẫn Có Thể, hãy gọi đó là Giai Điệu Của Cái Điều Không Thể. Từ đó,
cố vượt ra ngoài tầm nhìn và sự hiểu biết cạn cợt của chính mình. Điều mình
thấy như vậy, biết như vậy nhưng không chắc đã là như vậy. Hãy có cái nhìn và
sự hiểu biết từ cái điều Không Thể mà Có Thể đó.”***
Cho nên dù rất mặn nồng gắn bó, hòa âm tâm huyết, trải qua biết bao niềm
thích thú, ru hồn lên tuyệt đỉnh hân hoan… nhưng rồi cũng ngậm ngùi chia tay
trong lặng lẽ âm thầm. Chấp nhận cuộc sống ly thân, nàng tự sắp xếp, xoay xuở
công việc mưu sinh để cưu mang, nuôi dưỡng năm đứa con còn nhỏ dại ăn học thành
tài.
Nhờ cuộc tình thâm thiết, sinh động đó mà chàng chuyên tâm vào nghiên
cứu, hoàn thành tốt nghiệp Tiến sĩ triết học tại đại học Sorbonne, rồi sau đó
giảng dạy triết học Tây phương tại đại học Toulouse ở Pháp quốc. Thời kỳ này
kéo dài suốt mấy năm tràn đầy hào hứng tưng bừng, đám sinh viên Tây tôn sùng,
kính phục chàng còn hơn thần tượng.
Thế nhưng, lại một lần nữa, từ trên tuyệt đỉnh vinh quang, đang sống
trong hạnh phúc, đang được ngưỡng mộ, đang là thần tượng của đám sinh viên Anh,
Pháp, Mỹ, Đức… chàng lại vất bỏ giảng đường đại học Toulouse để ra đi như ngày
xưa đã vất bỏ lại sau lưng đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn. Thật là quá đỗi lạ lùng,
giống như triết gia Nietzsche rời bỏ đại học Bases để lên vùng thượng sơn sống
ẩn dật, suốt mười năm trời im lặng.
Những nhận xét của Lê Khắc Thanh Hoài về Phạm Công Thiện thật chí lý : “Tất cả những gì mà một con người bình
thường trên thế gian này khát khao đeo đuổi như tiền tài và danh vọng, thì lại
chính là những điều mà chàng luôn luôn muốn chối bỏ, khước từ, chạy trốn. Chàng
chỉ muốn ngoảnh mặt quay lưng, ném quăng những danh từ ấy thật xa thẳm, ra
ngoài tâm tư, trí tuệ mình.”***
Đúng là như thế, quả nhiên là chàng thực hiện y như vậy. Đã qua rồi thời
gian gọi là công thành danh toại ấy, kể từ năm 1983, chàng thi sĩ tự ý khước từ
danh vọng cao sang, chối bỏ giảng đường đại học nổi tiếng để bay vèo qua Los Angeles,
Hoa Kỳ, tự nguyện dấn thân vào phương trời vô sở trú, vô sở cầu, vô sở đắc,
chẳng thể nghĩ bàn. Chàng lại tiếp tục Đi
Cho Hết Một Đêm Hoang Vu Trên Mặt Đất, như tên một tác phẩm thâm thúy chàng
viết năm 1988 ở Garden Grove . Đường của thơ là những nẻo đường ngược
gió, là quán trọ, hiên chùa tá túc qua đêm. Đêm và ngày trôi qua như giấc mộng,
như sương rơi, như chớp lóe... Nghe hơi thở nhẹ vỡ bùng. Từ vô thủy đến vô
chung cõi về. Nàng thơ huyền mộng đê mê. Thế thôi chuyển cuộc muôn bề chia phôi
:
Đã đi thì đã đi rồi
Thượng phương trùng điệp thấy gì
nữa đâu
Hạ phương ngày tháng bể dâu
Sắt son tình cũ phượng cầu túy
hương
Có còn chi nữa mà thương
Buổi trưa nằm ngủ thấy nường năm
xưa
Đã đi rồi đã đi chưa
Thượng phương lụa trắng đong đưa
giữa trời
Đã đi mất hẳn đi rồi
Hạ phương tịch mịch trùng khơi
phong kiều
Chuyển hình trên đỉnh cô liêu
Lửa bay thành ngọn hồng điều mật
ngôn
Đại Huyền biến ngưỡng triều tôn
Tiền thân Tây Tạng nhập hồn chiêm
bao
Án nga nga nẵng bạch hào
Một luồng sáng rực chiếu vào trái
tim
Trái tim bốc lửa tam muội làm cháy tan hết những luật lệ phép tắc, những
lề thói khuôn khổ, lối mòn cũ rích của xã hội máy móc khô khan, cạn kiệt hết
bầu sinh khí, chàng thi sĩ muốn lên đường khai phá một con đường huy hoàng, sáng
tạo tân kỳ mới lạ hơn. Đứng trên tuyệt đỉnh cô liêu, một chiều hoang vu nọ,
chàng bỗng nghe văng vẳng những lời ẩn ngữ, mật ngôn huyền bí và chợt thấy thấp
thoáng tiền kiếp mình ở tận xứ miền tuyết trắng Tây Tạng hoang sơ. Biết mình là
hành giả Mật tông trong các dãy hang động trên tuyệt mù Hy Mã Lạp Sơn nên trái
tim Bát Nhã ứng hiện những nàng tiên huyền diệu, dạo khúc cung đàn mười tám
tiếng lòng Không Định rung ngân, khiến cho thi sĩ chỉ còn biết đọc thần chú lim
dim dung nhiếp :
Năm nàng thiên nữ tôn nghiêm
Trùng quan ngũ sắc ứng điềm tán không
Án đa la tịch mịch hồng
Mười phương xuất hiện những đồng sinh thiên
Bát Nhã là gái thiên tiên
Khoan thai cởi áo mây hiền trên cao
Gió lùa thơm tóc tơ đào
Thập bát Không Định tiêu dao tiếng đàn
Trời mưa chim ngủ trên ngàn
Sắt son tình cũ nước tràn
sang sông
Tiếng đàn tiêu dao
vô thanh mà vang ngân bất tận,
lan dài theo cuộc lữ kỳ cùng, rung hồn rúng chuyển gió sương ngàn
khắp vùng thung lũng sơn khê. Ơi chao ! Một đóa hồng hoa vụt trổ im lìm như những
nàng thiên nữ
giáng trần sà nhẹ vào hồn tim, để cho thi nhân xuất thần bay phiêu linh, phiêu
hốt trong bồi hồi rộn rã phập
phồng :
Đã đi rồi có đi không
Thượng phương trùng điệp cỏ hồng
thúy hương
Đi đâu mà lại lên đường
Hạ phương còn gặp cô nường năm
xưa
Đã đi rồi đã đi chưa
Sắt son triều ngưỡng tình xưa hiện về
Phượng cầu ngũ lĩnh sơn khê
Một bông hồng nở bốn bề lặng im
Năm nàng tiên đậu vào tim
Âm nhập dương khởi lim dim xuất
thần
Xuất thần, xuất cốt, xuất tinh huyết, tinh hoa quá mộng trên cuộc lữ dặm
dài. Phải chăng, năm nàng tiên nữ là ẩn ngữ ám chỉ cho năm nàng thơ đã từng
xuất hiện, đi qua một cách cụ thể trong đời chàng, nhưng củng có lẽ không phải
vậy. Đi vào cõi thơ nhiều tượng trưng, ẩn dụ, hoán dụ này, tha hồ chúng ta hiểu
ra nhiều cách bất ngờ thú vị. Tuy nhiên, dẫu sao thì dẫu, cuộc đời của thi nhân
vẫn dạt dào cảm hứng từ những nàng thơ trên mặt đất trần gian này.
Tình yêu vẫn là tiếng lòng muôn thuở, là chất liệu cho nhà thơ mở rộng
phương trời bay bổng sáng tạo, như triết gia Nietzsche tuyên bố : “Những trực kiến, nhập kiến sâu thẳm nhất
đều xuất phát từ tình yêu.” Hay như đạo sĩ Osho : “Tình yêu có thể tạo ra thiên đường ngay bây giờ và ở đây. Đây là cốt
tủy thông điệp của tôi : Hãy thương yêu nhiều hơn nữa, nhiều đến mức mà bản
thân bạn đơn giản trở thành một dòng suối tình yêu mà không là gì khác.”
Còn Phạm Công Thiện thì : “Nói đến tình
yêu, tình dục thì mọi người đều run sợ. Đạo sư Krishnamurti đã hỏi một câu rất
sâu sắc : “Tại sao chúng ta biến tình dục thành ra một vấn đề ?” Tất cả đều trở
thành vấn đề, ngay cả tình dục cũng trở thành vấn đề. Tại sao không để tình dục
phát triển tự nhiên với tinh yêu, tình thương như đóa hồng hé mở với giọt sương
mai ? Tình dục không phải chỉ là cảm giác, tình dục là sự tuôn chảy tự nhiên từ
Nguồn Suối Tình Thương Bao La của Sự Sống.”****
Vâng, đúng là như vậy, tình yêu, tình dục cùng chung một suối nguồn tuôn
chảy mênh mông, không giới hạn giữa đúng hay sai, tốt hay xấu, sạch hay dơ... gì
hết cả. Một khi tình yêu dịu dàng phát sinh từ cái đẹp trinh tuyền của tình thương nguyên
sơ, nguyên thủy, thì những hình ảnh tiêu biểu cho tình yêu thể hiện qua những thục nữ, thuyền quyên, những nàng thơ, tiên nữ, duyên dáng mỹ miều, yểu
điệu hồng nhan là rất đáng trân trọng mà thi nhân gặp gỡ, tao
ngộ, trùng phùng, gọi là Con Gái :
Càng xa càng mông lung
Tới gần vẫn lạ lùng
Nhắm mắt sao lạ quá
Mở ra ồ không cùng
Linh hồn con gái,
phải chăng là nhiệm huyền thi vị như vậy, khiến cho chàng thi sĩ mơ màng, mộng mị trong từng trận
trận chiêm bao ảo dị, phiêu phiêu :
Một người nằm thở quạnh hiu
Mơ mòng thiếu nữ cô liêu giáng trần
Gió khuya đập cửa bất thần
Giựt mình thức dậy mấy lần chiêm bao
Có nàng tiên dáng cao cao
Nước da mòng mọng hao hao bông hường
Cái đêm lành lạnh chiếu giường
Gió lùa hương lạ bên đường tạt qua
Đêm qua thương nhớ người ta
Tối nay tơ tưởng thiên hà bơ vơ
Tháng ngày tôi nhớ bâng quơ
Những nàng con gái bao giờ gặp đâu
Gặp nhau bao giờ
chưa, hỡi
những sắc nước hương trời, những kỳ hoa dị thảo, những hương đồng cỏ nội khắp
lâm tuyền, biên ải, ngoài bến gió bờ sương ở mọi chốn muôn nơi, hỡi những
thuyền quyên Hương, Uyên, Hoài, Loan, Sương… diễm tuyệt một
thuở nào quyến rũ, du dương tận xứ miền Liên Chiểu hay ngút ngàn sương khói Đà Lạt quá
mang mang :
Bầy chim bạc má gọi đàn
Thương nhau gặp lại trên ngàn đỉnh cao
Trở về Đà Lạt ngó đào
Ghé thăm Liên Chiểu thuở nào yêu nhau
Hãy yêu thương nhau đi, hỡi nhân loại đang sống trên quả địa cầu mầu
nhiệm này. Hãy hát bản tình ca muôn thuở đại bi tâm. Thầm
cảm nhận thấm thía hương vị mị kỳ của tình yêu tương đối và tuyệt đối, rồi từ
đó, thi nhân tự nhiên như nhiên chuyển dần sang ngạt ngào tuyệt bích tình
thương. Thấu thị nhân sinh, tình
yêu đã thăng hoa thành tình thương vô hạn. Tình thương yêu
tối thượng như mây lan tỏa khắp mười phương, chan chứa trộn lẫn trong giọng
chim Ca lăng
tần già hòa quyện tiếng kêu thanh tao, thánh thót nhập hồn sương khói vô vi trở
thành bồ đề
tâm diễm tuyệt miên trường :
Chim ca lăng kêu sương
Tôi sụp lạy cúng dường
Lôi bồ đề tâm dậy
Chấn động khắp mười phương
Chim ca lăng kêu sương
Tôi sụp lạy vô lượng
Lôi bồ đề tâm dậy
Địa động cả mười phương
Chim ca lăng kêu sương
Tôi sụp lạy đại dương
Lôi bồ đề tâm dậy
Sấm sét nổ mười phương
Chim ca lăng kêu sương
Tôi sụp lạy vô thường
Lôi bồ đề tâm dậy
Sấm chẻ đứt Kim Cương
Khi thi nhân quỳ
xuống, sụp lạy tất cả muôn loài vạn vật, đất trời thiên vạn cổ là lúc bồ đề tâm bừng dậy tỏa
chiếu hào quang rạng rỡ khắp muôn phương. Bồ đề tâm chính là đại bi tâm, có thể làm sụp
đổ tất cả mọi ác pháp. Hành động
quỳ lạy hết thảy mọi sự như thế, thể hiện một tâm hồn đã
nhập diệu vào
vô ngã, vắng lặng cái tôi, vắng lặng mọi so đo chân giả, xa lìa mọi giả danh,
tham chấp, chỉ còn cái đang là tỏa
sáng ánh thái dương.
Đó là sự chuyển động toàn diện của tâm thức viễn ly như thi sĩ phát biểu
: “Từ năm 1970 cho đến 1983, tôi đã sống
ở Do Thái, rồi ở Đức quốc và ở lâu dài tại Pháp quốc. Đến năm 1983 qua một cơn
chuyển động toàn diện của tâm thức viễn ly, tôi đã trở lại Hoa Kỳ, trở lại
thành phố Los Angeles sau một thời gian xa vắng gần hai mươi năm. Từ năm 1983
cho đến năm 1994, trên mười một năm nay, lại qua nhiều cơn chuyển động toàn diện
liên tục của tâm thức viễn ly, tôi vẫn tiếp tục sống ở thành phố Los Angeles,
sau vài chuyến lui về vùng đồi núi im lặng ở Úc Châu, tôi vẫn trở lại với thành
phố Los Angeles như trở về tập sống hồn nhiên tự tại với những cơn động đất
thường xuyên của đời mình. Cái “tôi” ở trên đã trở thành một cái gì khác. Không
biết là cái gì ? Cũng chẳng bận tâm biết đến làm gì, chỉ biết ở đây và ở đó vẫn
còn động đậy nhẹ nhàng những bước chân thầm kín, những bước chân lặng lẽ, thong
dong bình thản trở về sự im lặng.”*****
Trên ngõ về im lặng, im lặng vô ngần giữa bốn bề,
mười phương yên tĩnh tịch nhiên, như nhan đề
một tập thơ của chàng Trên Tất Cả Đỉnh
Cao Là Lặng Im, viết trên khắp nẻo phiêu bạt giang hồ thế giới và được xuất
bản năm 2009 tại Sài Gòn. Sự im
lặng xuất thần nhập cốt, vô cùng cảm hứng là những
trạng thái kỳ diệu mà Phạm Công Thiện thỉnh thoảng rơi vào một cách phiêu diêu,
ngay từ lúc còn tuổi thiếu niên, như một thời sống bồng tênh trên núi rừng phố hoa Đà Lạt, khoảng năm 1960.
Một chiều hiu hắt nọ, đang nằm đọc sách thiền, hoát nhiên chàng đứng bật dậy, quỳ lạy đất trời, khi bắt gặp thiền tông : “Tôi quỳ xuống lạy
lung tung, tôi lạy gió, lạy mưa, lạy nắng, lạy không khí, lạy cái ghế, lạy cái
bàn, lạy vách tường, lạy đóa hoa trong ly, lạy cái giường. Ồ tôi hạnh phúc,
sung sướng, yêu đời, yêu cả vũ trụ. Cảm tạ hết mọi đau khổ, mọi bất công, mọi
bi kịch, cảm tạ hết, cảm tạ bất tận. Tôi đã tìm được tất cả những gì đã đánh
mất từ mấy ngàn năm nay.”**
Hay một lần nơi thành
phố Garden Grove ở California, năm
1988, trong căn phòng trống trải cô tịch vô vi, thi nhân
cũng nhập diệu, thấy mình hóa thân trùng trùng giữa mười phương pháp giới vô
ngần : “Trong tận cùng sâu thẳm của kiếp
người, nó không khác người khác, nó là tất cả mọi người đang di động trên trái
đất, nó là tất cả những định tinh và hành tinh, nó là con sâu, cái kiến, con
bướm, con quạ, trái cam, chiếc lá. Nó là cơn gió thổi vèo qua kẹt cửa, nó là
luồng ánh sáng và đêm tối. Nó là cơn ác mộng trong đêm khuya và cơn
bừng tỉnh lúc rạng đông… Nó là một cảm giác, một tư tưởng,
một ý tưởng và một cử chỉ. Nó là mỗi chữ, mỗi tiếng, mỗi lời trong tất cả ngôn
ngữ loài người… Nó là sức mạnh vũ bão của
tất cả năng lực vũ trụ, sự tập trung tư tưởng mãnh liệt nhất của tất cả tư
tưởng nhân loại, tập thành khủng khiếp của tất cả đạo lý và triết lý…
Nó là nguyên lý đồng nhất tối thượng, đồng thời là sự
chuyển hóa tối hậu của chính nguyên lý đồng nhất và bước nhảy tịch liêu vào cõi
tịch mịch của một đóa hoa hồng tơi tả…”******
Rồi một lần kia, nhà
thơ cô đơn rờn lạnh, bước lê la
tha thẩn dạo chơi những ngày cận kề cuối năm ở tận góc bể chân
trời ven bãi biển Laguna Beach xa
xăm bỗng nhập thần mộng thấy thi hào Nguyễn Du và Thúy Kiều hiện về thấp thoáng, chập chờn trong gió thoảng vi vu :
Năm tàn nằm mớ Nguyễn Du
Kiều trôi đâu mất la phù dặm khơi
Cuốc kêu bảng lảng tháp hời
Nhắc tên người cũ rã rời cuối năm
Trầm tư bên một góc
quán cà phê ở Glebe, trên vùng đồi cao Earlwood, nhìn xuống dòng sông xanh, gần thành phố
Sydney ở tận bên kia bờ Úc Châu, thi nhân chợt nghe ra tiếng ngựa hí, tiếng đàn
vô thanh của Mã Minh và thấy Long Thọ lang thang dưới ánh trăng thái cổ ảo
huyền :
Con ngựa ô lồng lộn Mã Minh gãy đàn
Long Thọ thở dài nhật nguyệt lang thang
Ta là con chích chòe ngủ say cành
ổi trắng
Nắng rừng mai ai lượm hạt cho chim
Rồi lại một chiều rong
rêu, phiêu diêu cùng họa sĩ tài
tình Vĩnh Ấn bên dòng sông Seine bồng bềnh trên những lượn sóng, rực
ngời hoa nắng ven thành phố Paris, thi sĩ bỗng thấy Van Gogh nhập cốt ứng hiện huyền hòa
:
Úm tô rô Van Gogh hiện ra
Úm ba la u linh ma ha
Đất nứt nở ra bầy quạ trắng
Hồn thiêng Van Gogh nhập vào ta…
Van Gogh là một họa
sĩ dị thường, có một đời sống mãnh
liệt, đầy sáng tạo. Vâng, sáng tạo là một nghệ thuật tối
thượng, là bước đi tuyệt cùng tự giải phóng, tự giải thoát bản thân khỏi nhà tù
do chính mình tự tạo cho mình, như văn hào Henry Miller cũng đã từng tuyên bố : “Kẻ sáng tạo kêu gọi con người trực nhận
rằng, tất cả mọi tự do có sẵn trong bản thân rồi. Rằng con người không cần phải
bận tâm lo lắng đến vận mệnh thế giới ( vì đó không phải là vấn đề của hắn ) mà
chỉ nên lo giải quyết vấn đề riêng tư của chính riêng mình, tức là vấn đề giải
phóng, giải thoát, chứ không phải vấn đề nào khác cả.”
Henry Miller lấy giải thoát làm đề tài tối thượng và Phạm Công Thiện
cũng tương ứng trên tinh thần giải thoát giải phóng ấy, cho nên
thênh thang, xuôi
ngược bước đi nhảy múa trên thông lộ phong quang sáng tạo vô lường. Tường tận thấy rõ cái thực tại ở đây bây giờ, thở cùng linh khí của nhật nguyệt thiên thu, tái tạo từng điệu thở,
từng ý niệm, nổ tung mọi cố chấp, xô cửa huyền vi mà bước
qua phương trời tự do tự tại.
Giải thoát mọi dính mắc, buộc ràng, chỉ còn sáng
tạo và sáng tạo bao la, dốc hết tinh hoa, tinh túy để tựu thành những tác phẩm độc đáo vô ngần : Đi Cho Hết Một Đêm Hoang Vu Trên Mặt Đất, Khơi Mạch Nguồn Thơ Thi Sĩ Seamus Heaney, Một Đêm Siêu Hình Với Hàn Mặc Tử, Nguyễn Du Đại Thi Hào Dân Tộc, Đối Mặt Với Một Ngàn Năm Cô Đơn Của Nietzsche, Chỉ Còn Tiếng Thơ Trên Mặt Đất, Triết
Lý Việt Nam Về Sự Vượt Biên, Khai Ngôn Cho Một Câu Hỏi Dễ Hiểu : Triết
Học Là Gì ? Nét Đẹp Tinh Túy Trong Sáng Của Đạo Lý Phật Giáo, Làm Thế Nào Để Trở Thành Một Bậc Bồ Tát Sáng Rực Khắp Bốn Phương, Từ Bát Nhã Đến Pháp Hoa,
Những Bước Chân Nhẹ Nhàng Trở Về Sự Im Lặng, Trên Tất Cả Đỉnh Cao Là Lặng Im…là những bước nhảy thượng đẳng, phi thường, vượt qua sự chuyển hóa
toàn diện của tâm thức đến độ vô sư tự ngộ, bùng vỡ ra một điều chi vi diệu trên cung bậc Bất nhị giữa như thị, đang là ngay ở đây thôi :
Những gì không vói tới
Thì có sẵn đó rồi
Bao nhiêu danh vọng hời
Vài ba cụm bèo trôi
Ba mươi năm nằm dài
Một hôm đứng phắt dậy
Bất nhị xòe tầm tay
Bất ngờ tôi sụp lạy
Hôm qua vẫn trở lại
Dĩ vãng là hôm nay
Ngày mai là hiện tại
Hiện tại chết mỗi giây
Đấy là những bài thơ ngắn gọn, tuy đơn sơ giản dị
nhưng đi thẳng vào lòng người một cách tự nhiên, thể hiện cốt cách đặc thù
riêng biệt, hàm dung ý thiền “một là tất
cả, tất cả là một” của tinh
thần Hoa Nghiêm. Tất cả ý thức và vô thức của con người bị phá
vỡ tung ra, xoay tròn trôn ốc mất hút trong trùng trùng duyên khởi của toàn thể
sự sự vô ngại pháp giới. Một giây phút kéo dài cả triệu kiếp, một bước đi là
nghìn tỷ dặm, một cái nhìn là thiên thu bừng dậy, thấy phép lạ hiển hữu ngay trên một đóa hoa dại
hay trên một cục đá vô tri…
Khi tiềm ẩn nguyên
khí, nội lực thâm hậu thì bậc cao thủ, cự phách thường kiệm lời, ít nói mà linh hoạt,
tùy hứng như trẻ thơ, hồn nhiên đùa rỡn, xem cuộc đời như một trò chơi. Còn kẻ
thi sĩ xuất chúng, thì ít nhất cũng sờ đụng tới hố thẳm và đỉnh cao tâm linh của chính
mình. Đỉnh cao và hố thẳm tâm linh ấy, Phạm Công Thiện đã từng va chạm, giáp
mặt trong một bình sinh hy hữu nào đó, cho nên cả trời thơ đất mộng, dạt dào bao nhựa sống
thâm trầm,
nhập vào trong từng điệu thở tinh khôi :
Lùa nhẹ vào một mối
Đập mạnh một nhát thôi
Tất cả đều bày phơi
Trí tuệ sáng rực ngời
Muốn có được ánh
sáng quang minh trí tuệ rực ngời đó thì chẳng phải chạy tìm đâu xa mà chính
ngay nơi tận đáy lòng mình, chính nơi mình đang cư ngụ, lưu trú, ngay nơi những
nghịch cảnh, thử thách mà mình phải giáp mặt ngày đêm một cách anh dũng, không
nao núng. Nghịch cảnh là môi
trường sống, hoàn cảnh sống của mình thường bị nhiều chướng duyên đối nghịch,
nhưng cũng chính từ những nghịch cảnh đó mà mình chịu đựng, kiên nhẫn vượt qua,
biết chuyển hóa nó thì liền hoát nhiên liễu ngộ, bừng sáng
tuệ giác siêu việt. Khi thấy rõ tận tường được điều đó rồi thì xem mọi sự ở đời như sống chết, đến đi,
hơn thua, đúng sai, phải trái, giàu nghèo, thành bại… đều là nhân
duyên giả hợp, chẳng hề sợ hãi, lo âu chuyện còn hay mất :
Thất bại giữa đời này
Chết sáng ngời trên cao
Bông tàn phai cõi đất
Mọc lại giữa trăng sao
Nhảy thẳng vào sự việc
Chẳng có gì đáng tiếc
Sự việc lớn lao nhất
Là hiện tiền tịch diệt
Thực tại hiện tiền
là ngay đây bây giờ, ngay trong mỗi phút giây là chứa đầy vĩnh cửu, ngay trong
từng hơi thở ra vào là đủ cả nghìn
năm. Chỉ cần một chút tơ tưởng móng lên thôi là cả ba
nghìn thế giới, sơn hà đại địa hay thiên
tiên liền hiển lộ ngay trước mắt tức thì :
Chỉ cần một ý tưởng
Khắp vũ trụ mười phương
Sáng bừng lên vô lượng
Thiên tiên hiện đầu giường
Phải chăng đó là
cái thấy siêu phàm, thông tuệ
của một tâm hồn bao la thông suốt lẽ sâu xa, cái thấy bằng con mắt Hoa Nghiêm trùng trùng duyên khởi giữa mười phương pháp giới diệu kỳ ? :
Mỗi bước chân ra đi
Triệu vũ trụ thiên di
Mỗi chỗ tôi ngồi lại
Sáng bừng lên diệu lý
Chân lý vi diệu đó,
thi nhân bỗng phát hiện chẳng ở đâu xa mà ngay tại đây bây giờ, nơi chốn phù du bụi cát hỗn mang này, ngay
giữa những niềm vui, nỗi buồn, sung sướng hoặc đau khổ trong cõi bao dung huyền diệu của
thức tâm :
Trăm năm đời hờ hững
Đêm ngày buồn lơ lửng
Linh địa là tại đây
Nơi chỗ tôi đang đứng
Linh địa là mặt đất
thiêng liêng này, nơi thi sĩ đang sống từng phút, từng giây đầy trọn vẹn. Sống từ đồng bằng sông
Cửu Long đến cao nguyên sương mù Đà Lạt, từ Mỹ Tho, Sài Gòn, Nha Trang đến
Paris, Los Angeles, Chicago,
từ Monterey Park, Garden Grove, Long Beach đến New York,
Bellflower, Washington, từ San Gabriel, Alhambra, Houston đến Sydney, Earlwood, Glebe… ngút ngàn viễn xứ xa xôi :
Thoắt đi một đời người
Buồn hoài cũng thế thôi
Trăm năm là giây phút
Chưa đi đã tới rồi
Phiền muộn, buồn rầu chi nữa, khi hàng triệu tỷ năm
trôi qua và giờ đây ngưng đọng trong cái đang là, nơi người em thi ca từ vô
lượng kiếp trở về, đang mỉm cười nguyên sơ rạng ngời mới lạ :
Mười lăm tỷ năm qua
Từ vạn triệu thiên hà
Bây giờ ta mới tới
Gặp lại em hôm qua
Cuộc trùng phùng, kỳ ngộ thật vô cùng thú
vị, tuyệt hảo tân kỳ như một kẻ đốn ngộ vô ngôn vì thấy toàn thể vũ trụ là chốn
đạo tràng,
đầy đủ chư Phật, Bồ tát, Thần linh đều viên dung cùng một ngọn ngành thanh tịnh
:
Tất cả là đạo tràng thần linh
Ta ngồi tham ngưỡng cội vô hình
Thênh thang phù thế làm chim ó
Bay lượn tháng ngày cõi lặng thinh
Bay lượn giữa phong
quang trời đất, nhật nguyệt hay thả trôi trên dòng sông Mật tông thấm đẫm tình
Mẹ đại bi, đại trí Tãra xanh biếc huyền
mộng chan hòa. Cả vũ trụ mênh mông là một tu viện rồi thì về chùa hay xa chùa
cũng trong vòng tay bao dung mở rộng :
Tãra mười tiếng đại không
Ảo thân nằm giữa dòng sông Mật thừa
Về chùa một dúm muối dưa
Xa chùa cũng thế : Hứng mưa mỉm cười
Hầu như suốt cuộc
đời Phạm Công Thiện thường gắn bó, thân mật, cận kề với những ngôi chùa ở quê
hương cũng như các ngôi chùa nằm dọc ven đường lang bạt trên toàn thế giới, chàng
ở chùa nhiều hơn là ở nhà, từ chùa
Hải Đức ở Nha Trang đến chùa Vạn Hạnh ở Sài Gòn, từ chùa Việt Nam ở Los Angeles
đến chùa Viên Thông ở Bellflower, từ chùa Diệu Pháp ở Monterey Park đến chùa
Liên Hoa ở Garden Grove...
Cửa chùa là cửa Không, Không là Không Tánh nên tha hồ vào ra thoải mái,
chẳng hề vấn vương, chướng ngại gì cả. Cho nên từ Bát Nhã đến Pháp Hoa, từ Kim
Cang đến Hoa Nghiêm, từ Thiền tông đến Mật tông, Phạm Công Thiện lại tùy duyên
cất cao giọng sư tử hống trong các pháp đường, thiền viện ở Mỹ Châu và Úc Châu.
Mặc dầu, mới buổi sáng giảng kinh Kim Cang thao thao bất tuyệt trên thiền
đường, rồi buổi chiều thõng tay vào chợ, uống rượu ngâm thơ túy lúy cùng bọn văn nghệ sĩ,
giang hồ tứ chiếng đó đây mà phong thái vẫn nhàn nhã, tự tại, tiêu dao.
Mỉm cười buông bỏ, buông xả, trút xuống hết trên Những Bước Chân Nhẹ Nhàng Trở Về Sự Im Lặng để
bước đi trầm hùng sư tử, tự do vô sự. Vô sự như “chim hải hồ
bay trắng tháng ngày” bay khắp thiên thanh
vĩnh thúy rồi đậu xuống mái hiên chùa rêu phong tịch mịch, ngồi làm thơ kính
tặng cõi thinh không lồng lộng :
Mồng tơi mây ngủ hiên chùa
Dâm bụt rực đỏ hai mùa gặp nhau
Hơi rừng thơm nức chiêm bao
Đêm thâu nín thở ngó vào bài thơ
Toàn thể cuộc đời
là bài thơ, có không, sống chết là bài thơ, gặp gỡ, ly biệt là bài thơ, phiền não, an lạc là
bài thơ, thành công, thất bại là
bài thơ, may mắn, bất hạnh là bài thơ, khổ đau, hạnh phúc
là bài thơ, rực rỡ, tiêu điều là
bài thơ, chiêm bao, thực tại là bài thơ, vợ con, nhà cửa đầy đủ là bài thơ, xuất gia, cắt ái từ thân là bài thơ, thờ tượng Phật hay
không thờ cũng đều là thơ thơ hết thảy, thơ ở trong thơ :
Tượng Phật ở bàn thờ
Dọn dẹp để trống trơ
Tôi vẫn lạy chỗ trống
Chỗ trống thành bài thơ
Chính cuộc đời Phạm
Công Thiện là một bài thơ quá tuyệt vời bát ngát, quá tuyệt mỹ lý thú, quá tràn
trề mê say, ngợp đầy hào sảng,
phóng khoáng, đủ điệu tiêu dao, rào rạt
tuôn trào vô hạn… đã khơi dậy nguồn cảm hứng, thổi bừng lên ngọn lửa
thiêng huy hoàng rạng rỡ, cháy và cháy ngời bất tận giữa lòng nhân thế tuyệt trần :
Hứng lúc nào cũng đến
Giờ nào cũng giờ hên
Ngồi thẳng lưng mà viết
Vạn tơ tưởng bồng bềnh
Viết là sống. Sống một
lần Tự Do Đầu Tiên Và Cuối Cùng như Krishnamurti hay sống Alexis Zorba Con Người Chịu Chơi như Nikos Kazantzaki hoặc sống Chơi Giữa Mùa Trăng như Hàn Mặc Tử : “Tôi đã sống
mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. Tôi
đã phát triển hết cả cảm giác của tình yêu. Tôi đã vui, buồn, giận, hờn đến gần đứt sự
sống.”
Thể điệu sống ấy,
thật giống hệt với thi sĩ Phạm Công Thiện xiết bao ! Thật vậy, chẳng những
giống như Hàn Mặc Tử về phong cách nhập cuộc tha thiết, kiệt tận bình sinh, dốc
hết toàn thể xương xảu máu me vào ly rượu tình yêu nồng say óng ả mà Phạm Công
Thiện còn tương ứng, tương cảm với Rimbaud từng trải qua Một Mùa Địa Ngục bi tráng, bi hùng, với Whitman, chỉ một Lá Cỏ cũng đủ chứa đựng cả vô tận đất trời, với Heidegger Về Thể Tính Của
Chân Lý vi diệu, với Hoelderlin Quy
Hồi Cố Quận tâm linh, với Nietzsche Zarathustra Đã Nói Như Thế trên ngõ về vĩnh cửu và nhất là với Henry Miller, một tâm hồn thượng
đẳng mà Phạm Công Thiện luôn luôn
kính phục và ca tụng hết lời :
“Đối với tôi, Henry Miller còn vĩ
đại hơn cả Walt Whitman, hơn cả Dante, Shakespeare và Goethe. Vĩ đại một cách
bí mật, một cách thần diệu và vượt ra ngoài cả văn minh, văn hóa và văn chương
của toàn thể nhân loại, vượt ra ngoài Thiện và Ác, Đạo và Phi Đạo.
Đứng trên đảnh núi cao nhất của
nhân loại, Henry Miller cùng cười to tiếng với Duy Ma Cật, với Milarepa, với
tất cả những gì chưa bao giờ xuất hiện trên toàn thể không gian, thời gian của
cái gọi là Thực Tại và của cái gọi là Hư Vô.
Tương lai của toàn thể nhân loại
phải bắt đầu lại với Henty Miller thì mới may ra chuyển hóa toàn diện trái đất
này thành viên ngọc mani ( như ý ) trong trẻo của Quán Thế Âm Bồ Tát. Henry Miller
là một trong vài ba thiên tài nhân loại đã đánh thức dậy thế lực mãnh liệt nhất
của Lòng Đại Bi trong ý thức và vô thức của con người trên mặt đất…
Đọc Henry Miller là nghe lại
tiếng nói của Kinh Thi, Kinh Dịch, Kinh Vệ Đà, Kinh Bát Nhã, Kinh Kim Cang,
Kinh Hoa Nghiêm, tắm mình trong không khí u trầm của Đạo Đức Kinh, đùa hát
trong tiết điệu của Nam Hoa Kinh, ca ngợi mặt trời trong Kinh Ai Cập, thờ lạy
buổi chiều trong Kinh Á Rập và Do Thái, nhảy múa với cái chết trong Kinh Tây
Tạng, làm ái tình trong Kinh Mật tông, say rượu ngọt trong Kinh Hy Lạp…Tất cả
đều là Kinh, tất cả đều là Đạo, tất cả đều là cầu nguyện, tất cả đều là hơi thở
của vũ trụ, tất cả đều là linh thiêng và đều huyền dị. Tất cả đều im lặng, sự
im lặng trong khiết, thoát ra từ hố thẳm vạn đại.”
Lần đầu tiên qua Hoa Kỳ lúc mới 24 tuổi, một người duy nhất mà Phạm Công
Thiện muốn gặp là Henry Miller và chàng đã toại nguyện. Henry Miller nói chàng
là hậu thân của thi sĩ Rimbaud, khiến chàng hốt nhiên bùng vỡ ra một điều gì kỳ
tuyệt và từ đó, chàng sống trên cung bậc xuất thần, liên tục hân hoan với cái
đang là. Đang là thì “không từ đâu
đến cũng chẳng đi về đâu” dù cuộc lữ bắt đầu khởi sự từ vô lượng kiếp rồi, dù có đi vòng quanh
hết quả địa cầu này thì cũng để thấy lại cái tâm hồn mình, như Henry Miller nói : “Vì chỉ có một cuộc phiêu lưu vĩ đại thôi, đó là đi vào bên trong mình và đi vào trong lòng mình thì thời gian, không gian, ngay đến
hành động cũng không quan trọng gì cả.” Thì ra là vậy,
thật đơn giản mà độc đáo vô cùng.
Cuộc đời Phạm Công Thiện nhiều huyền thoại, ly kỳ ngoạn mục, chúng ta
hãy nghe chính Phạm Công Thiện tự giới thiệu về mình lúc 25 tuổi trong tập
thơ Ngày
Sinh Của Rắn, An Tiêm xuất bản 1966 :
“Sinh vào năm rắn bên dòng sông
Cửu Long. Vì tranh luận học vấn với giáo sư nên bỏ học trường lúc 13 tuổi. Viết
sách lúc 14 tuổi, làm giáo sư sinh ngữ từ lúc 16 tuổi đến 20 tuổi tại những
trường ở Sài Gòn, Mỹ Tho, Đà Lạt, Nha Trang.
Quyển sách khảo luận đầu tiên
được xuất bản vào lúc 16 tuổi. Viết quyển Ý Thức Mới Trong Văn Nghệ Và Triết Học
lúc 20 tuổi. Học triết lý tại trường đại học Yale để trình tiểu luận Ý Niệm Về
Chân Lý Trong Tư Tưởng Platon Và Heidegger tại hội thảo triết lý ở Yale. Tiếp
tục học triết lý tại trường đại học Colombia . Khinh bỉ giáo sư và bỏ
học bổng của Viện Giáo Dục Quốc Tế, bị viện mời đi gặp bác sĩ phân tâm học,
được mời khéo vào nhà thương điên, lại tranh luận với bác sĩ phân tâm học về
giá trị và giới hạn của phân tâm học hiện đại, chỉ trích đời sống nông cạn của
Mỹ quốc.
Sống lang thang lay lất ở xóm
nghệ sĩ Greenwich Village tại New York, đã gặp Henry Miller tại Pacific
Palisades ở California, được Henry Miller nhận là Rimbaud tái sinh lại ở thế kỷ
XX. Sau đó được một văn sĩ Do Thái cho tiền để trốn qua Paris, không giấy tờ
không hành lý, sống bơ phờ ở Bretagne .
Học văn chương tại trường đại học
Rennes, khinh bỉ giáo sư rồi lại bỏ đi và sống lang thang lay lất khắp hang
cùng ngõ hẻm ở Paris, làm chochard, đi ăn mày, ngủ dưới gầm cầu ngủ trên vĩa hè,
đói lạnh long đong và bỏ làm luận án tiến sĩ tại Pháp. Được Henry Miller gởi
tiền nuôi sống và được Henry Miller cho tiền rời bỏ Paris để sống lang thang
giang hồ tại Thụy Sĩ, Ý Đại Lợi, Ba Tư, Hy Lạp, Thái Lan vân vân…
Lúc ở Paris thì nhập bọn với nhóm
nghệ sĩ trẻ ở Popoff la cà vất vưởng ở xóm Saint Séverin và Saint Germaindes
Pres. Đã gặp Krishnamurti hai lần tại Square Rapp. Hiện đang sống chờ đợi điên
và chờ đợi chết.
Triệt để đứng ngoài tất cả ý thức
hệ chính trị, đứng ngoài mọi sự tranh chấp tôn giáo, khinh bỉ tất cả văn hóa
nhân loại, thù ghét tất cả mọi tổ chức xã hội. Vô cùng kiêu hãnh, chỉ đi một
mình và tự nhận là thiên tài độc nhất của Việt Nam .”
Cùng nòi giống,
cùng dòng máu Henry Miller, lấy
giải thoát làm đề tài tối thượng nên Phạm Công Thiện cũng
nhiệt liệt, hiên ngang theo dõi cuộc phiêu lưu thám hiểm vào nội tâm thầm kín,
để khai phá ra những bí mật bên trong thế giới tâm linh sâu thẳm của chính mình. Từ đó, cuộc lữ thênh thang sáng tạo và
sáng tạo miên man trên con đường mây
trắng tự do, gió trăng đồng vọng, rung ngân lên văng vẳng những cung đàn lã
lướt dưới gót chân của chàng thi sĩ dị thường.
Bước đăng trình vạn lý du, có đôi lúc cũng dừng gót nghỉ ngơi một vài
quán trọ ven đường như giảng dạy triết lý, văn chương ở đại học Toulouse, Pháp
quốc hay thuyết trình Thiền tông, Mật tông ở các thiền viện trên khắp miền viễn
xứ California, Mỹ Châu, Úc Châu. Có một
thời gian ngắn, chàng lui về Garden
Grove , một thành phố nhỏ vùng biển, sống với một nàng
thơ kiều diễm và viết tác phẩm Đi Cho Hết
Một Đêm Hoang Vu Trên Mặt Đất. Rồi những năm tháng gần cuối đời, chàng quay
về quy ẩn, nhập thất lâu dài ở vùng ngoại ô, phố thị Houston, Hoa Kỳ.
Tiến sĩ Nhật Nohira Munehiro khi làm luận án tốt nghiệp tiến sĩ, lấy đề
tài Ý Thức Mới – Phạm Công Thiện, Tư
Tưởng Gia Việt Nam, cho biết các nhà học giả uyên thâm xứ hoa Anh Đào đều
ca tụng Phạm Công Thiện là Long Thọ của Việt Nam. Nhà văn Henry Miller thì cho
rằng, Phạm Công Thiện là hậu thân của Rimbaud, một thi sĩ tiên tri thấu thị của
nủa nước Pháp. Nhà thơ Lê Giang Trần, nhà thơ Phan Tấn Hải bên Mỹ thì tôn vinh,
tấn phong Phạm Công Thiện là bậc Bồ tát nghệ sĩ, còn riêng Phạm Công Thiện thì
tự nhận mình chỉ là nhà thơ, một thi sĩ thuần túy mà thôi : “Ngôn ngữ của tôi là ngôn ngữ của thi sĩ, ai
muốn hiểu sao đó thì hiểu… Thơ là linh hồn của tất cả âm nhạc, hình ảnh của thơ
là vô hình đột chuyển thành ra hiện hình và hiện ảnh : Hiện hình và hiện ảnh
của thơ chính là hiện cảnh linh động, hiện thực hơn tất cả những cảnh sắc và
phong cảnh hiện tiền… Thơ không nói về bất cứ cái gì cả, như vậy mới là tất cả.
Thơ chỉ là thơ và thơ tự nói về thơ, từ trong thơ đến trong thơ, cả cao và
thấp, cả trong và ngoài, ở trên và dưới mặt đất, tất cả chỉ là thơ.”
Vâng, tất cả chỉ là thơ, khi thấy muôn sự muôn vật trên cõi đời này chỉ
là thơ thôi, thì lúc ấy mới bừng sáng rực ngời lên chân thực nghĩa vô lượng, vô
biên của Diệu Tâm thâm hậu, của Nhất Chân pháp giới, trùng trùng duyên khởi Hoa
Nghiêm, thấy tất cả mọi sự đều tốt đẹp và tốt đẹp như tánh thể bản nguyên Chân
Thiện Mỹ. Vì thế, cho nên thi nhân vẫn tiếp tục sáng tác, sáng tạo không ngừng trên
tinh thần phá chấp triệt để, nhập hoan hỷ địa thênh thang :
Tháng ngày làm thơ chơi
Hồn bay thẳng ra khơi
Bạch phát ngút ngàn tới
Thu phong tắt nghẹn lời
Cứ gọi đại là thơ
Làm lúc nào chẳng nhớ
Cho một cô gái nhỏ
Chưa gặp nhau bao giờ
Muốn gì mà có ngay
Thì tai nạn vạ bay
Không thèm muốn gì nữa
Đời tràn ngập thơ hay
Khi thơ hay bay
ngập tràn mặt đất trần gian, thì ngôn ngữ Việt Nam cũng bay về ngợp trời xanh bát
ngát, làm trang nghiêm cho nụ cười thanh tịnh, ngời sáng ánh quang minh. Thế là trên cung bậc hân hoan sáng tạo, người thi sĩ kỳ tuyệt của chúng ta đã xuống tận hố thẳm cũng như đã
lên tột đỉnh cao chất ngất của tâm linh và chợt bừng ngộ, thấy ra toàn thể cõi đời chỉ là một cuộc đại hòa điệu chơi tối
thượng, một trận khiêu vũ nhịp
nhàng hoan hỷ địa theo thể điệu du hý tam muội lồng lộng,
phiêu bồng.
Sống là chơi, chết
là chơi, đến đi là chơi, lý sự là
chơi, yêu ghét là chơi, khen chê, tốt xấu là chơi, vui buồn, sướng khổ là chơi,
được mất, thật giả là chơi, hơn thua, phải trái là chơi, đúng sai, thành bại là chơi, thịnh suy, dị đồng là chơi,
tịnh động, khó dễ là chơi, mê ngộ, cao thấp là chơi, có không, mộng thực là
chơi, tỉnh thức, say sưa, uống rượu lu bù, túy lúy ca là chơi, điên cuồng rực
rỡ, hú vang, gầm thét dữ dội là chơi, phiêu bạt giang hồ
khắp thế giới là chơi, biết nhiều thứ
tiếng, ngôn ngữ ngoại quốc là chơi, giảng dạy triết lý,
thi ca, thiền học là chơi, làm
giáo sư các đại học ở Việt Nam, Pháp, Mỹ là chơi, làm đại
đức, thiền sư
Nguyên Tánh là chơi, làm hành giả
Thiền tông, Mật tông là chơi, làm văn nghệ sĩ là chơi, mần thơ, viết văn, viết tùy bút, tiểu luận chi chi cũng là chơi chơi
hết thảy mà thôi. Ơi chao ! Một cuộc đại hòa điệu chơi trùng trùng vô thủy vô
chung giữa mênh mông vô tận, bất khả tư nghì…
Cuộc đại hòa điệu
chơi tới ngày 8. 3. 2011
tại Houston, Texas Hoa Kỳ, thi sĩ biết
trước giờ ra đi vào buổi chiều nên nhẹ nhàng, thung dung qua chơi bên miền cõi
vô cùng. Trước giờ phút Trên Tất Cả Đỉnh Cao Là Lặng Im này, tôi sực nhớ lại một chiều mùa hạ năm 1969, tôi đã tìm đến gõ cửa viếng
thăm và được Phạm Công Thiện nhiệt tình, hoan hỷ tiếp chuyện trong phòng riêng ở
Đại học Vạn Hạnh, một lần duy nhất trong đời. Vậy thì bây giờ, không gì hơn, tôi xin đọc bài thơ tiễn biệt Phạm
Công Thiện về chốn miền vĩnh viễn thiên
thu :
Lãng tử phiêu bồng
không chỗ trú
Không chốn dung
thân giữa
phong trần
Nên đi thỏa thích
trời vô định
Đỉnh cao hố thẳm
ngút phù vân
Dốc hủ Đông Tây
tràn tư tưởng
Nghiêng bầu kim cổ
ngập quang minh
Uống cạn ngàn năm
bao tinh túy
Đại hòa điệu chơi
với muôn tình
Tình thiên thu ấy
đầy ứng hiện
Xuất thần nhập cốt
rộn bừng say
Đốt lửa hồn thiêng ngời tỏa sáng
Bát ngát điều chi
chợt hiển bày
Cười thênh thang
quá đường không lộ
Tung hoành ngang
dọc khắp năm châu
Bước chân nhẹ nhàng
về im lặng
Mà nghe rúng động cả địa cầu
Tâm Nhiên
* Phạm Công Thiện. Ý Thức Mới Trong Văn Nghệ Và Triết Học. Tái bản lần thứ ba. An Tiêm xuất bản,
Sài Gòn 1966
** Phạm Công Thiện. Henry Miller. Phạm Hoàng xuất
bản, Sài Gòn 1969
*** Lê Khắc Thanh Hoài. Chuyện
Một Người Đàn Bà…Năm Con. Thời Đại xuất bản 2012
**** Phạm Công Thiện. Triết Lý
Việt Nam
Về Sự Vượt Biên. Trần Thi xuất bản, Hoa Kỳ 1995
***** Phạm Công Thiện. Những Bước Chân Nhẹ Nhàng Trở Về Sự Im Lặng. Phương Đông xuất
bản 2008
****** Phạm Công Thiện. Đi Cho Hết Một Đêm Hoang Vu Trên Mặt Đất. Trần Thi xuất
bản, Hoa Kỳ 1988
Thơ Phạm Công Thiện ( chữ nghiêng ) trích trong các tác phẩm :
Ngày Sinh Của Rắn. An Tiêm xuất
bản, Sài Gòn 1966
Trên Tất Cả Đỉnh Cao Là Lặng Im. Văn Hóa Sài Gòn xuất
bản 2009